Trang chủ    Ảnh chính    Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong tình hình mới
Thứ năm, 29 Tháng 12 2016 11:28
26895 Lượt xem

Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong tình hình mới

(LLCT) - Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân trong hoạch định Cương lĩnh, đường lối và tổ chức thực hiện; giải quyết đúng đắn quan hệ giai cấp và dân tộc; đảng viên sống, chiến đấu vì lý tưởng của Đảng. Trong thời kỳ mới, bốn nguy cơ vẫn tồn tại, nhiều vấn đề mới, thách thức mới, đặt ra yêu cầu phải tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, phải quan tâm giáo dục, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân; tăng cường lãnh đạo giai cấp công nhân và phong trào công nhân.

(Bác Hồ thăm xưởng cơ khí (Nhà máy Gang thép Thái Nguyên), ngày 1-1-1964 _ Ảnh: TL)

1. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng và những vấn đề đặt ra hiện nay

Từ khi thành lập cho đến nay trải qua hơn 85 năm, dù qua nhiều tên gọi khác nhau - Đảng Cộng sản hay Đảng Lao động - Đảng ta luôn mang bản chất giai cấp công nhân (GCCN). “Sách lược vắn tắt của Đảng” do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng năm 1930, xác định “Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”(1). Bản chất GCCN của Đảng thể hiện ở chỗ: mục tiêu, lý tưởng của Đảng là CNXH và chủ nghĩa cộng sản; nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, và tư tưởng Hồ Chí Minh; nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập trung dân chủ; Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng; lấy phê bình và tự phê bình làm quy luật phát triển,...

Tuy nhiên, như Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chỉ ra, Đảng ta ra đời ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, GCCN còn nhỏ bé. Do đó, khác với một số nước tư bản phát triển, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam có tính đặc thù. Đảng ta ra đời không chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân mà còn với phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là đặc thù của Việt Nam, là sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói rằng, Đảng ta không chỉ là Đảng của GCCN mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Bởi vì, lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của dân tộc thống nhất là một. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng (2-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng Lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, trung thành của GCCN và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam... Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của GCCN và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Tháng 1-1957, nói chuyện tại Trường cán bộ Công đoàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của GCCN, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”.

Quan niệm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh một thực tế là Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại và hoạt động không chỉ vì lợi ích của GCCN mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc. Ngoài lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác. Chính vì vậy Đảng được nhân dân tin yêu, giúp đỡ, thừa nhận là Đảng của chính mình, trìu mến gọi Đảng là “Đảng ta”, được nhân dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình.

Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng, trong Văn kiện Đại hội X rồi đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của dân tộc”(2). Thể chế hóa tư tưởng của Cương lĩnh năm 2011, Hiến pháp năm 2013, tại Điều 4 đã hiến định bản chất và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(3).

Diễn đạt như trên vừa thể hiện tính phổ biến và tính đặc thù trong bản chất của Đảng ta. Là Đảng Cộng sản chân chính, Đảng ta mang bản chất GCCN theo chủ nghĩa Mác-Lênin (tính phổ biến); còn nét đặc thù của Đảng ta theo sự phát triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đồng thời là của nhân dân lao động, của dân tộc, phù hợp với thực tế Việt Nam và đáp ứng được nguyện vọng, tình cảm của nhân dân. Diễn đạt về bản chất của Đảng ta như trên là biện chứng, khoa học, phù hợp với thực tế, khắc phục được cả hai cực đoan: (1) phủ nhận, xóa nhòa bản chất GCCN của Đảng, rơi vào quan điểm “Đảng toàn dân”, và (2) hiểu bản chất GCCN của Đảng theo nghĩa hẹp hòi, biệt phái, tách rời GCCN khỏi nhân dân lao động và dân tộc. Điều đó đòi hỏi Đảng ta chẳng những phải trung thành với GCCN, nâng cao lập trường, tư tưởng của GCCN, mà còn phải học tập, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu vì lợi ích của cả giai cấp và dân tộc.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tuy có lúc mắc phải sai lầm, khuyết điểm, song nói chung Đảng ta đã giữ vững được bản chất GCCN trong hoạch định Cương lĩnh, đường lối, chiến lược và sách lược của cách mạng cũng như trong tổ chức thực hiện đường lối. Đảng đã kiên quyết đấu tranh với những sai lầm xa lạ với bản chất công nhân là bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, xét lại, bệnh tả khuynh hoặc hữu khuynh. Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa độc lập dân tộc và CNXH, giữa phát huy sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại... Đảng kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, kiên định với nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt Đảng. Đường lối của Đảng là vì lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của dân tộc. Các đảng viên của Đảng đã sống, chiến đấu, hoạt động vì lý tưởng của Đảng cũng tức là lý tưởng của GCCN. Trong thời kỳ đổi mới, nhất là trong giai đoạn 2011 - 2015, mặc dù chịu tác động của rất nhiều khó khăn, thách thức do sự biến động của tình hình thế giới và trong nước, song như Đại hội XII nhận định: Đảng ta vẫn “giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, kiên định đường lối đổi mới. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(4). Điều đó cũng có nghĩa là Đảng ta vẫn giữ được bản chất GCCN.

Tuy nhiên, bước sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng... đặt ra nhiều vấn đề mới cho Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh mặt thuận lợi, sự biến động nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực cùng những khó khăn, yếu kém, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, quản lý đất nước đã tác động đến Đảng và bản chất GCCN của Đảng, đặt ra những yêu cầu, thách thức mới đối với Đảng và việc giữ vững bản chất GCCN của Đảng.

Sau giai đoạn 2011-2015, kinh tế từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc, nợ công tăng nhanh, kinh tế phát triển chưa bền vững, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp; nhiều vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh, đạo đức xã hội có mặt bị xuống cấp, đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn.

Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ chưa bị đẩy lùi; tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành. Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Thậm chí, ở một số cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ lão thành xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng như phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, muốn đưa chủ nghĩa Mác - Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận mục tiêu CNXH, muốn đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập,...

Những yếu kém, khuyết điểm trên đây làm cho Đảng ta chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm suy giảmbản chất GCCN của Đảng.

Vì vậy, phải tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, giữ vững bản chất GCCN của Đảng trong tình hình mới.

2. Một số nhiệm vụ và giải pháp giữ vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng

Thứ nhất, vai trò lãnh đạo của GCCN chỉ có thể thông qua đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản. Vì vậy nhiệm vụ giữ vững, tăng cường bản chất GCCN của Đảng không tách rời với toàn bộ yêu cầu tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Chỉ có xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng thì mới giữ vững, tăng cường được bản chất GCCN của Đảng. Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, tăng cường bản chất GCCN và tính tiên phong, sức chiến đấu, phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, công tác kiểm tra, giám sát và công tác dân vận của Đảng, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”(5).

Đại hội XII nhấn mạnh: “Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI”(6); phải “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị - tư tưởng, tổ chức và đạo đức”(7). Phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định đường lối đổi mới; kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, không dao động trong bất cứ tình huống nào. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch. Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm... Đảng cần chú trọng thường xuyên giáo dục lập trường, quan điểm, ý thức giai cấp trong Đảng, tăng cường thành phần công nhân trong Đảng, bồi dưỡng, phát triển các công nhân trẻ tuổi, ưu tú vào Đảng, làm tăng cường sinh lực của Đảng.

Thứ hai, Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị phải thực sự quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển GCCN cả về số lượng và chất lượng. Cần xây dựng chiến lược phát triển GCCN, có những chính sách, luật pháp, thể chế, biện pháp đồng bộ, mạnh mẽ, cơ chế tạo động lực để phát triển GCCN. Chú trọng xây dựng cơ cấu GCCN hợp lý, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất, chú trọng xây dựng đội ngũ công nhân trí thức, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân. Có chính sách ưu đãi với công nhân giỏi, xây dựng và phát huy truyền thống GCCN, tôn vinh người thợ, nghề thợ để thu hút công nhân trẻ, khuyến khích công nhân học tập để nâng cao tay nghề. Nhà nước cần quan tâm đầu tư các nguồn lực để đào tạo nghề, mở mang các trường dạy nghề, gắn cơ sở đào tạo với doanh nghiệp và cơ sở sản xuất - kinh doanh.

Cần xây dựng, hoàn thiện các chính sách bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân. Hiện nay, trong GCCN nổi lên nhiều vấn đề bức xúc phải giải quyết như việc làm, đời sống của công nhân đang gặp nhiều khó khăn, chịu tác động mạnh của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế; chất lượng lao động của công nhân nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH; điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn - vệ sinh lao động của công nhân còn kém, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có xu hướng tăng, các chế độ bảo hiểm cho công nhân còn nhiều bất cập; quan hệ lao động đang diễn biến phức tạp, tranh chấp lao động, đình công có xu hướng tăng lên; nhiều vấn đề xã hội như nhà ở, đời sống văn hóa tinh thần của công nhân nhập cư, ngoài tỉnh trong các khu công nghiệp, khu chế xuất đang nổi lên rất bức xúc. GCCN là giai cấp lãnh đạo cách mạng, không thể để cho giai cấp này lại có một cuộc sống “nhếch nhác”, bị tha hóa, nghèo khổ, trình độ học vấn thấp, ý thức tổ chức kỷ luật yếu kém...

Đảng và Nhà nước cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách việc làm, bảo vệ việc làm cho công nhân, nâng cao thu nhập, tiếp tục cải cách chính sách tiền lương, cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn - vệ sinh lao động, hoàn thiện và phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho công nhân, hoàn thiện chính sách nhà ở, các công trình phúc lợi cho công nhân.

Cần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, đồng thuận, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp, phòng ngừa và giảm thiểu tranh chấp lao động, đình công trên cơ sở giải quyết hài hòa quyền và lợi ích các bên trong quan hệ lao động.

Các cấp ủy Đảng và chính quyền cần tăng cường giáo dục bản chất cách mạng của GCCN, nâng cao nhận thức, giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị, nâng cao ý thức tự hào, tự tôn dân tộc, tự hào với truyền thống GCCN, ý thức tôn trọng pháp luật, ý thức công dân, rèn luyện tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh.

Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Nhà nước đối với GCCN, phong trào công nhân và Công đoàn.

GCCN là cơ sở chính trị - xã hội quan trọng hàng đầu của Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Muốn Đảng, Nhà nước vững mạnh, giữ vững bản chất GCCN của Đảng tất yếu Đảng phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng GCCN, phong trào công nhân và Công đoàn, Nhà nước phải tạo những điều kiện thuận lợi về chính sách, cơ chế, về kinh phí, phương tiện vật chất để phát triển GCCN, nâng cao trình độ học vấn, trình độ giác ngộ, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ cho công nhân.

Để thực hiện yêu cầu trên đây, cần phải:

- Gắn chặt xây dựng Đảng với xây dựng GCCN; gắn chặt đổi mới hệ thống chính trị với đổi mới tổ chức công đoàn.

- Phải xây dựng một GCCN Việt Nam hiện đại, đặc biệt xây dựng đội ngũ công nhântrí thức, công nhân lao động trí óc sáng tạo.

- Gắn chặt giáo dục lý luận tư tưởng cách mạng nhất là cho thế hệ công nhân trẻ với giáo dục đạo đức, lối sống, phong cách, khoa học - kỹ thuật, nâng cao chất lượng nguồn lực công nhân.

- Quan tâm xây dựng các tổ chức đảng và đoàn thể chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

- Đổi mới mạnh mẽ tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức công đoàn, làm sao cho Công đoànthực sựlà đại diện cho lợi ích của công nhân, người lao động; khắc phục những biểu hiện hành chính hóa, hình thức hóa trong hoạt động của Công đoàn. Cần quan tâm mạnh đến vai trò công đoàn cơ sở, nâng cao tính cạnh tranh của tổ chức công đoàn, nhất là trong điều kiện sẽ hình thành công đoàn độc lập theo Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Việt Nam là một nước tham gia.

Cần có những quy định pháp lý để các chủ doanh nghiệp tư nhân phải tôn trọng vai trò của Công đoàn, tôn trọng tiếng nói đại diện cho công nhân và người lao động của các công đoàn, nhất là đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân.

- Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về GCCN, phong trào công nhân và Công đoàn trên thế giới và trong nước. Cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ những đặc điểm mới của GCCN hiện đại trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, văn minh tin học, tiếp tục đi sâu vào khái niệm GCCN Việt Nam, mối quan hệ của GCCN Việt Nam với tầng lớp trí thức, sự biến đổi về cơ cấu, đặc điểm của GCCN Việt Nam, các xu thế biến đổi (xu thế trí thức hóa, hiện đại hóa, đa dạng hóa...) của công nhân. Cần phê phán những quan điểm sai trái, lệch lạc về GCCN như cho rằng GCCN ngày nay đã bị tan biến vào xã hội hậu công nghiệp, bị đánh mất bản chất cách mạng của mình, hoặc xem GCCN chỉ là những người lao động cơ bắp, nghèo khổ, học vấn thấp, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của GCCN Việt Nam.

________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2016

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.3.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.88.

(3) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.9-10.

(4) (5) (6) (7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.191, 80, 198-199, 202.

 

GS, TS Lê Hữu Nghĩa

Phó Chủ tịch

Hội đồng Lý luận Trung ương

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền