Trang chủ    Ảnh chính    Sự kết tinh tư tưởng - đạo đức và phong cách trong “Di chúc” của Hồ Chí Minh
Thứ sáu, 23 Tháng 8 2019 15:09
3077 Lượt xem

Sự kết tinh tư tưởng - đạo đức và phong cách trong “Di chúc” của Hồ Chí Minh

(LLCT) - Tròn 50 năm, Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Di chúc là sự kết tinh tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Bài viết này luận giải ý nghĩa thời đại và sự trùng hợp linh thiêng của Di chúc, tầm cao tư tưởng, một mẫu mực về đạo đức, một đặc sắc phong cách Hồ Chí Minh.

1. Điều trùng hợp linh thiêng từ nỗi đau lớn nhất trên đời

Cách đây 50 năm, vào 9 giờ 47 phút sáng ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩnh biệt chúng ta, trở về với thế giới người Hiền. Trái tim của con người có tấm lòng nhân hậu nhất đã ngừng đập. Khối óc của nhà tư tưởng lỗi lạc nhất đã ngừng suy nghĩ. Trong Thông cáo đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta cũng như trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại lễ truy điệu trọng thể Người sáng ngày 9-9-1969 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử đều đã nhấn mạnh: “Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất này vô cùng lớn lao! Đau thương này thật là vô hạn! Dân tộc ta và Đảng ta mất một vị lãnh tụ thiên tài và một người thầy vĩ đại”.

“Phong trào Cộng sản quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả loài người tiến bộ mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết. Đồng bào và chiến sĩ cả nước thương nhớ Người khôn xiết! Anh em và bầu bạn khắp năm châu cùng chia sẻ nỗi đau buồn sâu sắc của chúng ta”(1).

Hồi tưởng lại sự ra đi về cõi vĩnh hằng của Người 50 năm về trước, mọi thế hệ người Việt Nam đều cảm nhận thấm thía tận đáy lòng nỗi đau mất mát này. Từ nỗi đau lớn nhất trên đời này, ta nhớ lại những điều trùng hợp linh thiêng trong cuộc sống 79 mùa xuân của Bác Hồ.

- Điều trùng hợp thứ nhất, Người khởi thảo lần đầu bản Di chúc từ 9 giờ đến 10 giờ sáng ngày 10-5-1965 vào dịp sinh nhật 75 tuổi. Bản thảo Di chúc hoàn thành ngày 15-5-1965. Người viết sẵn một dòng chữ “Chứng kiến của Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương” và mời đồng chí Lê Duẩn đến ký.

Từ đó cho đến lúc qua đời, năm nào Người cũng đọc và sửa chữa bản văn mà Người gọi là “Tài liệu tuyệt đối bí mật”, cũng vào dịp sinh nhật tháng Năm, cũng vào khoảng giờ ấy, mà Người nhận thấy, đó là giờ minh mẫn nhất. Dành khoảng thời gian ấy để nghĩ về dân, về nước và dặn dò những điều hệ trọng đối với Đảng và Chính phủ. Trái tim Người ngừng đập vào đúng 9 giờ sáng. Các bác sĩ trong tổ y tế đặc biệt của Trung ương ra sức cấp cứu, hồi sức cho Người suốt 47 phút mà không được, Người vĩnh viễn từ biệt thế giới này kể từ giờ phút ấy. Đó là những khoảnh khắc linh thiêng Người đã dành cho đồng bào và các đồng chí của mình khi viết và sửa chữa “bức thư để lại” như Người nói với tất cả sự khiêm nhường.

- Điều trùng hợp thứ hai, Người đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, ngày 2-9-1945. Hai mươi bốn năm sau, Người ra đi cũng vào ngày, tháng ấy - ngày Quốc Khánh, 2-9-1969, sau hai mươi bốn năm liền là nguyên thủ quốc gia.

Bản văn Di chúc 1000 từ của Người để lại cho mọi người, cho muôn đời thực sự là một hiện tượng văn hóa, cho ta nhận rõ có một văn hóa Hồ Chí Minh - văn hóa làm người, văn hóa ở đời với giá trị và ý nghĩa trường tồn của nó.

2. Di chúc của Hồ Chí Minh - một tầm cao tư tưởng

Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về tổng kết lý luận - thực tiễn mang tầm tư tưởng chiến lược của bậc vĩ nhân. Là Chủ tịch Đảng và Chủ tịch Nước, hai mươi bốn năm liền là nguyên thủ quốc gia, Hồ Chí Minh đã thể hiện trong Di chúc 1000 từ - một đại tổng kết lý luận - thực tiễn cách mạng Việt Nam gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Người, với những chặng đường trong cuộc hành trình lịch sử của dân tộc và của Đảng, vì lý tưởng và mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của nhân dân. Chúng ta đã vượt qua bao thử thách cam go, chiến đấu gian lao và anh dũng “đánh thắng hai đế quốc to”, toàn Đảng, toàn dân là một ý chí, một niềm tin son sắt, hành động với sức mạnh đoàn kết muôn triệu người để giành thắng lợi, hướng tới tương lai.

Trong Di chúc, trên bình diện tư tưởng, Người đã đề cập toàn diện các vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, về Đảng và xây dựng Đảng cầm quyền thực sự trong sạch, vững mạnh, về Nhà nước và thực hành dân chủ, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Di chúc trù tính việc trước mắt và việc lâu dài, về dân tộc và quốc tế. Di chúc trù tính công việc tương lai, tái thiết đất nước sau chiến tranh, xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, làm tất cả mọi việc vì hạnh phúc của nhân dân.

- Niềm tin tưởng mãnh liệt của Người vào thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong hoàn cảnh chiến tranh đang diễn ra hết sức ác liệt, đồng bào, chiến sĩ cả nước đang chịu đựng nhiều gian khổ hy sinh, vượt qua muôn vàn thử thách, khó khăn và tình hình quốc tế cũng đang diễn biến phức tạp... cho thấy tầm nhìn xa, trông rộng của Người. Đó là niềm tin khoa học, nhìn thấu xu thế phát triển của tình hình, tính tất yếu thắng lợi của chính nghĩa cách mạng và sự thất bại không thể nào tránh khỏi của chiến tranh xâm lược phi nghĩa, trái đạo lý và phản nhân văn mà đế quốc thực dân gây ra.

Người tin tưởng, khẳng định và nhấn mạnh “cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”(2).

Với Hồ Chí Minh, niềm tin thúc đẩy hành động. Người hình dung “cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Và hành động lại góp phần củng cố niềm tin: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta sẽ nhất định thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà.

Từng lời, từng chữ của Người trong Di chúc đều toát lên sự kiên định, nhất quán của tư tưởng, sự vĩ đại của niềm tin không gì lay chuyển được.

Động lực sâu xa thúc đẩy Người tin tưởng mãnh liệt như thế và thức tỉnh đồng bào, chiến sĩ hành động dũng cảm, quyết liệt như thế, không có gì khác đó là tình yêu và tình cảm của Người với Tổ quốc và nhân dân mà cả cuộc đời mình, Người đã tự nguyện dấn thân và dâng hiến cho dân, cho nước. Nó lắng đọng, bền bỉ, thường trực trong suy tư và cảm xúc, trong trái tim và trí óc của Người.

Cũng trong bối cảnh của Di chúc, Người đã từng kêu gọi đồng bào, chiến sĩ ta “Hễ còn một tên xâm lược Mỹ thì chúng ta phải quét sạch nó đi”, phải “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, “tiến lên toàn thắng ắt về ta”, để cho “Bắc Nam xum họp vui nào vui hơn”... Người đã thực sự truyền cảm hứng tới toàn dân tộc. Trong giờ phút thử thách ác liệt, cam go của cuộc chiến đấu, cũng như trong suốt cuộc hành trình lịch sử của dân tộc để bảo vệ quyền sống, quyền tự do, giữ gìn và nâng cao phẩm giá con người, quả thật là, Hồ Chí Minh luôn luôn là ngọn cờ dẫn dắt toàn dân tộc, gắn bó máu thịt với nhân dân mình, cuộc đời Người ở trong sự sống và số phận của nhân dân, dân tộc mình.

Hãy nhớ lại những sự kiện tiêu biểu in dấu ấn của Người trong mỗi bước ngoặt của cách mạng. Bên thềm của Cách mạng Tháng Tám giải phóng dân tộc, Người từng căn dặn chúng ta với quyết tâm sắt đá “... Dù có phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng quyết tâm giành cho được độc lập”. Giữa khói lửa của cuộc chiến tranh xâm lược trở lại của thực dân Pháp, ngày 19-12-1946, Người ra lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước “thà hy sinh tất cả quyết không chịu làm nô lệ”. Đó là lời thề thiêng liêng đối với Tổ quốc mà nguyên thủ quốc gia Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể quốc dân đồng bào nói lên ý chí của toàn dân tộc.

Hai mươi năm sau, vào lúc 76 tuổi, khi đã khởi thảo xong lần đầu bản Di chúc, ngày 17-7-1966, Người ra lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước. Trong lời kêu gọi ấy, nổi bật một tư tưởng lớn, một sự lựa chọn giá trị được khẳng định “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đó là chân lý của muôn đời, rọi sáng nhận thức, giúp chúng ta hiểu rõ vì sao niềm tin vào thắng lợi và ý chí chiến đấu vì thắng lợi hoàn toàn của Người mãnh liệt đến như vậy.

Chỉ cần lưu ý tới một chi tiết trong văn phong của Người thì đủ rõ. Bốn lần trong một đoạn văn ngắn, Người nhấn mạnh tới từ “nhất định” để khẳng định niềm tin chiến thắng.

- Trong Di chúc, Người căn dặn điều hệ trọng nhất, đó là Đảng chân chính cách mạng và sự lãnh đạo cầm quyền của Đảng. Người viết, trước hết nói về Đảng. Trong điều “trước hết” này, Người nêu bật vấn đề đoàn kết. Nhờ có đoàn kết mà Đảng đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác(3). Người khẳng định “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”(4).

Người căn dặn, “các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(5). Đây là nhân tố làm nên sức sống, sức chiến đấu của một Đảng cách mạng mà lẽ sống, sự tồn tại của Đảng chỉ vì nhân dân. Đoàn kết trong Đảng, muôn người như một người còn là sức mạnh của trí tuệ khoa học và đạo đức cách mạng của toàn Đảng, của từng tổ chức Đảng đến mỗi một đảng viên. Đoàn kết trong Đảng còn là động lực và sự nêu gương, thúc đẩy đoàn kết toàn dân tộc, gắn liền với đoàn kết quốc tế. Với Hồ Chí Minh, lãnh tụ tối cao của Đảng và của dân tộc, đoàn kết là nỗ lực phấn đấu, là mẫu mực thực hành trong suốt cuộc đời của Người. Trước tình trạng xảy ra mất đoàn kết, sự bất hòa giữa các đảng anh em, Người dằn vặt, lo âu đến mức đau đớn.

Là người chiến sĩ cách mạng, luôn tin tưởng, lạc quan vào sự nghiệp cách mạng, luôn tự hào về sự lớn mạnh của phong trào cộng sản thế giới mà Người phải nói đến “sự đau lòng” về tình trạng bất hòa giữa các đảng anh em thì nỗi đau ấy của Người thấm thía biết chừng nào. Với nghị lực phi thường, với tấm lòng cao cả, Người thường nén chặt nỗi đau nhân thế ở trong lòng, đúng như Tố Hữu viết “quên nỗi mình đau để nhớ chung”, “nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Ngay trong ngôn từ, hiếm khi Người nói tới sự đau buồn, vậy mà trong Di chúc, Người phải nói đến “tự hào bao nhiêu” thì cũng “đau lòng bấy nhiêu” trước những sóng gió âm ỉ trong phong trào cộng sản quốc tế mà Người cảm nhận sâu sắc hơn ai hết, thì nỗi đau của Người là tất cả tinh thần trách nhiệm không chỉ đối với Đảng, với dân tộc mà còn đối với quốc tế và nhân loại. Thêm một lần nữa, ta nhận ra sự cao thượng vĩ đại của Người.

Người căn dặn Đảng ta, “ra sức hoạt động”, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại đoàn kết giữa các Đảng anh em trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”(6). Người cũng tin chắc rằng, “các Đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”(7). Đây cũng chính là một trong những phương diện xây dựng Đảng của Đảng ta, là trách nhiệm cao cả của Đảng ta đối với phong trào cộng sản quốc tế và cách mạng thế giới theo Di chúc của Người. Xây dựng và chỉnh đốn lại Đảng là một trong những lời căn dặn thấm thía, sâu sắc nhất của Người trong Di chúc.

Sau khi nêu bật vấn đề giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, Người căn dặn phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình(8).

Người xác định đây là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Người còn nêu rõ, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(9). Đó là nội dung, phương pháp mà cũng là nguyên tắc và yêu cầu về đạo đức, thấm nhuần chất nhân văn của Người khi nói về xây dựng Đảng. Có một mối lên hệ không thể tách rời giữa dân chủ với đoàn kết, giữa tự phê bình và phê bình với sự thống nhất tư tưởng và hành động trong một Đảng cách mạng, Đảng chiến đấu. Nó được đảm bảo không chỉ bằng lý trí mà còn là đạo đức cách mạng của Đảng và mỗi đảng viên. Tình đồng chí thương yêu lẫn nhau là thước đo đạo đức, là chuẩn mực văn hóa trong Đảng mà Người đặc biệt chú trọng bồi dưỡng, vun đắp cho chúng ta, nêu gương thực hành cho chúng ta noi theo. Thực hành đạo đức là thực hành lớn nhất, xuyên suốt cuộc đời và thấm nhuần trong mọi thực hành của Người.

- Trong Di chúc, Người nói về Đảng ta với tư cách là một Đảng cầm quyền. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Trong các lãnh tụ cộng sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề cập tới lý luận về Đảng cầm quyền, hơn nữa ở điều vô cùng hệ trọng này, Người lại có cách diễn đạt, trình bày cô đọng, sâu sắc và cảm động nhất, thực chất nhất. Đây là sự bổ sung vào lý luận Mác xít của Người, là một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng kinh điển Mác xít. Chỉ trong một đoạn ngắn, Người đã bốn lần nhấn mạnh chữ “Thật” để nói về Đảng và xây dựng Đảng. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(10).

Trong bản sửa Di chúc năm 1968, Người còn trù tính và căn dặn Đảng ta, ngay sau khi cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi,... “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi(11).

- Cũng trong bản văn năm 1968, Người nhấn mạnh, “đầu tiên là công việc với con người”(12).

Thấu hiểu vai trò của dân, sức đóng góp to lớn và sự hy sinh vô bờ bến của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nên khi nói về “đầu tiên là công việc với con người”, Người đặc biệt quan tâm tới việc đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với nước. Giải quyết các vấn đề xã hội trong quản lý xã hội sau chiến tranh ở trong chiều sâu tư duy quản lý xã hội của Hồ Chí Minh. Người căn dặn bao điều cụ thể, thiết thực, thấm đượm tinh thần nhân ái và nhân văn cao cả của Người. Trong Di chúc, Người viết: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng và chính phủ phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người, để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh”(13).

Người còn chỉ dẫn, đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Người đồng thời nhắc nhở chính quyền địa phương, chính quyền cùng hợp tác xã nông nghiệp ở nông thôn giúp đỡ cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt sĩ mà thiếu lao động và túng thiếu, để họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét(14)... Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất trong những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu... cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Người tin rằng, đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Người rất mực quan tâm tới phụ nữ và nông dân, căn dặn Đảng và chính phủ cần có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo. Người cũng động viên phụ nữ phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ. Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp cho các hợp tác xã để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất. Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu... thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện.

Trù tính những công việc phải làm sau khi đã hoàn toàn thắng lợi, Người nói tới kế hoạch xây dựng lại thành phố, làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân như phát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động. Củng cố quốc phòng, chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc(15)...

Hết lòng quan tâm và tin cậy ở thế hệ trẻ, Người nêu trong Di chúc một vấn đề có tầm chiến lược, “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Nói tóm lại, Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt, để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân(16).

Vậy là, bao nhiêu việc phải làm, bao nhiêu đối tượng con người phải quan tâm đều được Người nói đến, nhắc đến. Trong trái tim mênh mông của Người đều có chỗ dành cho tất cả mọi người, mọi cảnh đời và số phận. Trong suy nghĩ, lo toan, định liệu của Người từ việc hôm nay và mai sau, từ chiến tranh đang còn tiếp diễn đến sau ngày thắng lợi khi đã có hòa bình và thống nhất, từ hiện tại bộn bề gian khó đến tương lai với triển vọng tốt đẹp, tươi sáng... Hồ Chí Minh đã dành tất cả trí tuệ và tâm hồn, sức lực và thời gian để chăm lo cho đời sống của nhân dân.

- Tư tưởng phong phú, sâu sắc của Người trong Di chúc còn thể hiện ở quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội Việt Nam, về đổi mới để phát triển đất nước ta sau chiến tranh. Đó là những chỉ dẫn vô cùng quý báu cho Đảng và nhân dân ta hiện nay và mai sau. Từ tâm nguyện, điều mong muốn cuối cùng ghi trong Di chúc ta nhận ra quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội Việt Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Người viết những dòng cuối cùng khép lại bản văn 1000 từ, cô đúc tất cả những suy ngĩ, cân nhắc suốt 4, 5 năm liền. “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(17).

Câu hỏi lớn: Chủ nghĩa xã hội là gì ở Việt Nam đã được Người trả lời sáng tỏ. Đó là hướng đích mục tiêu, là giá trị, là tất cả mong muốn của Người với sự kết tinh hoài bão, khát vọng cả cuộc đời Người theo đuổi, phấn đấu đến cùng. Tại lễ ra mắt hoạt động công khai của Đảng sau Đại hội II, năm 1951, Người đã nói: toàn bộ đường lối chính sách của Đảng chỉ đúc vào một câu thôi: một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và phú cường. Gần hai thập kỷ sau, trong Di chúc 1969, câu này được nhắc lại hoàn toàn, Người chỉ thay “phú cường” bằng “giàu mạnh” cho đồng bào của Người dễ hiểu, dễ nhớ.

Cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, Đảng ta đã thể hiện trọn vẹn định hướng mục tiêu của Người thành mục tiêu của đổi mới, đồng thời cũng là đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam - một chủ nghĩa xã hội đậm tính chất nhân dân và dân tộc, gắn liền với bản chất giai cấp công nhân và tinh thần thời đại: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong Di chúc, Người đề cập tới đổi mới một cách sâu sắc mà bình dị.

Theo bản văn Người viết năm 1968, đổi mới như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân để xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn sau chiến tranh.

Người hình dung, “công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng rất là vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Lại ba lần, từ “toàn dân” được nhắc lại, một thể hiện sinh động nguyên lý cách mạng là sự nghiệp của quần chúng qua hành động thực tiễn đầy tính năng động, sáng tạo của nhân dân. Họ thực sự là chủ và thực sự làm chủ, tự mình xây đắp cuộc sống hạnh phúc của mình. Đổi mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đường lối của Đảng mang tầm vóc một cuộc cách mạng, là một tiến trình lịch sử lâu dài với những cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để trên “Đường cách mệnh”. Định nghĩa dung dị mà sâu sắc của Người, dù độ lùi của thời gian đã hơn chín thập kỷ, cho đến nay vẫn mang tầm một định nghĩa kinh điển: “Cách mệnh là phá cái cũ, đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(18).

Bản văn Di chúc 1000 từ với tầm cao tư tưởng đó của Người đã trở thành Bảo vật Quốc gia cùng với những tác phẩm lý luận cũng như văn chương đặc sắc khác của Người. Di chúc là sự kết tinh nổi bật nhất Tư tưởng - Đạo đức - Phong cách Hồ Chí Minh.

3. Di chúc Hồ Chí Minh - Một mẫu mực về đạo đức, một đặc sắc về phong cách của Người

Tư tưởng - Đạo đức - Phong cách Hồ Chí Minh là một hệ thống chỉnh thể không tách rời, từ đặc trưng đến giá trị, từ nội dung đến hình thức, từ tinh thần đến phương pháp. Người biểu đạt bằng lời văn, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, có sức truyền cảm lớn, rất đỗi chân thành, đúng với con người, đời sống và cốt cách Hồ Chí Minh - một nhà tư tưởng mácxít hiện đại, một bậc hiền triết, minh triết phương Đông, đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.

Tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh được thể hiện chân thực và cảm động trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người với 60 năm hoạt động cách mạng vì nước, vì dân, trọn đời dâng hiến và hy sinh vì lý tưởng cộng sản, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân.

Đó là đạo đức hành động, suốt đời chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho Tổ quốc được độc lập và thống nhất, dân tộc và đồng bào mình có tự do và hạnh phúc. Người từng nói, tôi tự nguyện dâng hiến đời tôi cho nhân dân, cho dân tộc và nhân loại. Khát vọng và ước muốn của Người vĩ đại mà vô cùng giản dị, làm sao cho đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, được học hành, trở thành những con người tự do và làm chủ, được phát triển hoàn toàn những năng lực vốn có của mình. Coi đó là lẽ sống, Người ý thức sâu sắc rằng, nhân dân là quý nhất, và sự đoàn kết của nhân dân là sức mạnh to lớn nhất, dân chủ là của quý báu nhất trên đời của dân, cho nên bao nhiêu lợi ích phải thuộc về dân, bao nhiêu quyền cũng là của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Đạo đức hành động vì dân thì phải phấn đấu, tranh đấu hy sinh, tận tâm tận lực phục vụ nhân dân, làm cho những tư tưởng cao quý “Thân dân” và “Dân chủ” đó phải trở thành hiện thực, phải làm cho dân thụ hưởng được lợi ích và là chủ sở hữu quyền lực, nhất là quyền lực nhà nước. Nhà nước của dân, do dân, vì dân nên nhân dân phải kiểm soát được quyền lực do chính mình ủy quyền, để quyền lực thực sự phục vụ nhân dân, không bị tha hóa, không biến dân chủ thành “quan” chủ. Là đầy tớ trung thành, công bộc tận tụy của dân chứ không lên mặt “quan” cách mạng.

Đạo đức Hồ Chí Minh kết tinh trong bản Di chúc của Người.

Nói về Đảng, Người nhấn mạnh trước hết tới đạo đức của Đảng cầm quyền, của mỗi tế bào của Đảng là chi bộ và đảng viên. Phải suốt đời rèn luyện cần, kiệm, liêm, chính, chống chủ nghĩa cá nhân để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của Đảng là phụng sự Tổ quốc và nhân dân.

Trong Di chúc, lời căn dặn của Người về đạo đức thấm nhuần trong toàn bộ mọi nhiệm vụ, mọi công việc, phải dũng cảm hy sinh, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đi tới thắng lợi hoàn toàn trong cuộc chống Mỹ cứu nước.

Người đặc biệt quan tâm tới giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, lớp người kế tục sự nghiệp cha anh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Đảng ta, như Người khẳng định là một Đảng cầm quyền nên đạo đức trong Đảng, trước hết là đoàn kết thống nhất phải giữ gìn như giữ gìn con ngươi của mắt mình là điều hệ trọng, để dân tin, dân phục, dân yêu. Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Dân làm nên sức mạnh bền vững của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Quan tâm của Đảng, Nhà nước và Chính phủ tới cuộc sống của nhân dân là đạo đức mà cũng là trách nhiệm. Nó phải thấm vào trong ý thức, tư tưởng và tình cảm, biến thành hành động của mọi đảng viên, cán bộ, công chức, đoàn viên, hội viên của mọi tổ chức, đoàn thể. Các chủ trương, chính sách, biện pháp, các việc làm lớn nhỏ, trước mắt cũng như lâu dài mà Người nêu ra trong Di chúc, mà Người căn dặn chúng ta thực hiện đều thể hiện đạo đức của người cách mạng, thực hành trong lẽ sống, lối sống vì dân, như Người đã từng nói, “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”, “không làm điều gì trái ý dân”, “làm đầy tớ trung thành và công bộc tận tụy của dân là lẽ sống cao thượng nhất”.

Khi nhấn mạnh “đầu tiên là công việc với con người”, Di chúc đã căn dặn Đảng và Chính phủ cũng như mọi cán bộ, đảng viên phải hết lòng quan tâm chăm sóc nhân dân ở khắp mọi đối tượng, không quên, không sót một ai, nhất là phải thi hành các chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với các thương binh, liệt sĩ và gia đình của họ, tuyệt đối không để thân nhân và gia đình họ rơi vào cảnh đói khổ, túng thiếu. Phải giáo dục truyền thống cho lớp trẻ. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau trong tự phê bình và phê bình.

Bản thân Hồ Chí Minh, những lời Người “nói về việc riêng” cũng thể hiện những phẩm chất đạo đức cao quý, thương dân, không muốn lãng phí thì giờ tiền bạc của dân nên Người yêu cầu “thi hài được đốt đi (nói chữ là hỏa táng)”, tro xương dành một phần cho miền Nam và cho khắp cả ba miền Bắc - Trung - Nam. Người căn dặn, trên mả không cần bia đá tượng đồng. Làm một ngôi nhà thoáng đãng cho đồng bào khi viếng thăm có chỗ nghỉ ngơi. Đó là sự quan tâm chu đáo của Người và cao quý nhất là Người đã quên mình, hóa thân vào dân, vào nước.

Nỗi niềm tiếc nuối của Người chỉ là “không được phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Từ lời văn cảm động này khi dãi bày, Người đã thể hiện rõ đạo đức của người cách mạng, suốt đời phục vụ Tổ quốc, nhân dân với tất cả tình thương và trách nhiệm. Cả cuộc đời gắn bó sâu nặng, tình nghĩa với dân, với nước, Người là hiện thân cao quý của đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, là tấm gương sáng cho mọi thế hệ, cho muôn đời noi theo.

Phong cách Hồ Chí Minh là nơi thể hiện và kết tinh cả tư tưởng và đạo đức của Người

“Phong cách chính là con người”. Nhận xét ấy của Buýp Phông, nhà văn và triết gia Pháp đã nói được tính tổng hòa các giá trị, các phẩm chất, đặc trưng làm nên phong cách của một con người. Bậc vĩ nhân Hồ Chí Minh - con người, cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức của Người tạc lên phong cách của Người - giản dị mà vĩ đại, vĩ đại thực sự nên giản dị đến mức hồn nhiên, tự nhiên - như đời sống của Người, không một chút nào gượng ép. Người giản dị chứ không hề giản đơn. Giản dị - đặc trưng điển hình cho phong cách của Người là nơi thể hiện tất cả sự phong phú, sâu sắc của Người, đúng như một danh ngôn của một nhà tư tưởng đã nói: Giản dị là nỗ lực cao nhất và cuối cùng của một bậc thiên tài.

Trong lối sống hàng ngày, Người thực hành tiết kiệm đến mức khắc khổ, để nêu gương suốt đời phải ơn dân, thương dân mà phải tiết kiệm, vì mỗi đồng tiền, bát gạo mà chúng ta tiêu dùng đều từ mồ hôi, nước mắt của dân làm ra.

Nâng cao trách nhiệm, một lòng tận tụy cũng vì ơn dân và thương dân. Người từng nói, dân đóng thuế để Chính phủ có tiền trả lương cho công chức. Nếu làm việc cẩu thả, lười biếng, tắc trách là lừa gạt dân. Còn tham ô tham nhũng là có tội với dân, với nước nên phải diệt trừ tham nhũng như diệt trừ một tội ác, trừng trị tất cả những kẻ bất liêm, bất kể chúng là ai, bất kể ở cương vị nào.

Viết Di chúc, Người viết trên cả mặt sau tờ tin tham khảo hàng ngày của “Việt Nam thông tấn xã”. Vậy mà, “Sau bản tin một đêm Người ký thác chuyện muôn đời” (Việt Phương).

Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của một con người ở bậc Đại trí - Đại nhân - Đại Dũng, con người Việt Nam đẹp nhất. Phong cách ấy xét đến cùng là văn hóa, một bản lĩnh văn hóa của Hồ Chí Minh: khiêm nhường và nhân ái, vị tha và bao dung, quên mình để nghĩ về tất cả. Dấn thân - Dâng hiến - Hy sinh và Hóa thân - đó là Hồ Chí Minh, văn hóa Hồ Chí Minh.

Người thanh thản ra đi, về cõi vĩnh hằng, gặp tổ tiên và Mác - Lênin - nơi thế giới người Hiền. Người luôn lạc quan tin tưởng mãnh liệt, thương yêu vô hạn mà nỗi đau - đau đời, đau người trong cõi nhân gian và nhân thế cũng đến tột cùng.

Người chỉ một lòng, một dạ vì dân, vì nước, vì quốc tế và nhân loại, tuyệt nhiên không màng công danh, phú quý, không ham danh lợi, không chủ trương “một thứ lập” gì hết. Vậy mà Người đã lập đức cao quý cần, kiệm, liêm, chính, lập công vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho nhân dân. Người - nhà văn, nhà thơ, nhà báo, danh nhân văn hóa, tâm hồn lộng gió thời đại cũng là “người lập ngôn” để lại dấu ấn không phai mờ trong lịch sử “không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Đảng là đạo đức, là văn minh”...

Cũng không nên quên rằng, trong Di chúc 1000 từ, Người dành hết cho dân, cho nước, cho Đảng, cho dân tộc và quốc tế. Người chỉ dành cho mình ít nhất, đúng 79 từ. Vậy là Người đã lấy cái ít nhất về ngôn từ (tối thiểu) để tải một cái lớn nhất, nhiều nhất (tối đa) về tư tưởng. Văn học là nhân học, Hồ Chí Minh đã dùng “chữ” ít nhất để biểu đạt “nghĩa” nhiều nhất trong văn và trong đời. Xét về chữ thì Di chúc nói ít nhất về chủ nghĩa xã hội. Nhưng xét về nghĩa thì Di chúc lại nói được nhiều nhất với những tư tưởng lớn và phương pháp sáng tạo về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đó là phong cách, là bản lĩnh Hồ Chí Minh.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận số 4-2019

(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.626, 621, 621-622, 622, 622, 623, 623, 622, 622, 622, 616, 616, 616, 616, 617, 612, 614.

(18) Hồ Chí Minh, Sđd, t.2, tr.284.

 

GS, TS Hoàng Chí Bảo

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền