Trang chủ    Ảnh chính     Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội
Thứ hai, 02 Tháng 2 2015 15:10
3420 Lượt xem

Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội

(LLCT) - Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã đứng lên làm nên cuộc cách mạng Tháng Tám vĩ đại, hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng CNXH, bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do của dân tộc. Trong suốt 85 năm xây dựng và trưởng thành, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng là không thể thay thế.

Lễ kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2015) (Ảnh: ST)

1. Cách mạng và đổi mới trước hết phải có Đảng

Đảng là vấn đề cốt tử của cách mạng. Trong cuốn Đường cách mệnh, in lần đầu tiên năm 1927 ở Quảng Châu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề “cách mệnh trước hết phải có cái gì?” và Người nêu rõ: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”(1)... Người còn nói: chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng XHCN đến thành công.

Lịch sử cách mạng Việt Nam 85 năm qua, trong đó có quá trình đổi mới xây dựng CNXH đang diễn ra, chứng minh chân lý ấy.

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Việt Nam là một xứ thuộc địa vô cùng tăm tối. Không cam chịu thân phận nô lệ mất nước, nhân dân Việt Nam đã liên tiếp vùng dậy đấu tranh, người trước ngã người sau tiếp bước. Song các phong trào yêu nước đều thất bại vì thiếu một đường lối đúng đắn và một tổ chức cách mạng hùng mạnh lãnh đạo. Tình hình đen tối như không có đường ra. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lịch sử cách mạng Việt Nam bước sang trang mới.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, cuộc cách mạng thuộc địa thành công đầu tiên trên thế giới sản sinh ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do và từng bước tiến lên CNXH.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì độc lập tự do, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu hơn 30 năm ròng, đánh bại các cuộc xâm lược vũ trang tàn bạo của các đế quốc đầu sỏ, quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi, hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức trên thế giới.

Sau khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hoàn thành vào năm 1975, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân cả nước quá độ từng bước lên CNXH, đồng thời không lơ là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo công cuộc đổi mới vì mục tiêu XHCN, và công cuộc đổi mới đã và đang giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng.

Trải qua hơn 80 năm, con đường cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra trong Cương lĩnh chính trị năm 1930 đã thực hiện được những nhiệm vụ lịch sử, dẫn đến những biến đổi lớn lao chưa từng thấy trên đất nước Việt Nam. Có thể nói: nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam và cuộc đấu tranh anh dũng, đầy hy sinh gian khổ của nhân dân, dưới ngọn cờ của Đảng, thì không có nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như ngày nay.

Trong 85 năm qua, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên thực tế tuyệt nhiên không có lực lượng chính trị nào có thể thay thế. Bởi không có con đường nào khác dẫn đến độc lập tự do, nhân dân ấm no, hạnh phúc ngoài con đường gắn kết độc lập dân tộc với CNXH mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng do Người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo đã vạch ra. Sự lãnh đạo của Đảng trở thành nhân tố ăn sâu bén rễ trong đời sống dân tộc Việt Nam. Ngày nay, từng người dân Việt Nam đều cảm nhận ra rằng, nhân dân được đổi đời, đất nước thay da đổi thịt, Tổ quốc có địa vị xứng đáng trên trường quốc tế - tất cả điều ấy không thể có được nếu không có Đảng lãnh đạo.

Sở dĩ Đảng thực hiện được những nhiệm vụ lịch sử trọng đại vô cùng khó khăn, phức tạp ấy là do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là mấy nhân tố cơ bản sau đây:

Một là, Đảng có đường lối đúng. Đó là đường lối do Nguyễn Ái Quốc đặt nền móng từ những năm 20 thế kỷ XX. Đường lối cơ bản của Đảng là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối đó là việc giải quyết đúng đắn và kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn các mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH.

Hai là, Đảng sinh ra từ một dân tộc có truyền thống yêu nước, bất khuất, một nhân dân rất cách mạng, thiết tha với độc lập tự do, khát khao xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, điều này phù hợp một cách tự nhiên với lý tưởng của CNXH. Hồ Chí Minh đã nói từ đầu những năm 20 thế kỷ XX rằng, sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đế quốc “đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”(2). Hạt giống đầu tiên chính là lý luận Mác - Lênin sáng tạo mà Nguyễn Ái Quốc đã gieo vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng sống sâu trong lòng dân tộc và nhân dân yêu nước, cách mạng - đó là cội nguồn sâu xa sức mạnh của Đảng.

Ba là, Đảng qua các thời kỳ đấu tranh, lúc thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn, đều được tổ chức chặt chẽ trên nguyên tắc tập trung dân chủ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên rất mực trung thành với lý tưởng cách mạng, một lòng một dạ phấn đấu hy sinh vì dân, vì nước, vì giai cấp và dân tộc.

Nhấn mạnh bản chất và truyền thống cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoàn toàn không muốn nói Đảng chỉ có mặt ưu điểm mà không có mặt nhược điểm, khuyết điểm, rằng Đảng chỉ có thành công mà không có thất bại. Điều đó không thể có được với bất cứ chính đảng cách mạng nào. Trên thực tế 85 năm lãnh đạo cách mạng và ở mỗi thời kỳ, bên cạnh cái đúng và ưu điểm là căn bản, Đảng không tránh khỏi có những vấp váp, sai lầm, khuyết điểm.

Lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ, giành chính quyền về tay nhân dân, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc là lĩnh vực mà Đảng Cộng sản Việt Nam được tôi luyện già dặn, thể hiện đầy đủ bản lĩnh cách mạng sáng tạo của mình. Tuy nhiên, bước vào cách mạng XHCN, Đảng đứng trước tình hình hết sức độc đáo: xây dựng CNXH xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ TBCN, lại có thời kỳ (1954 - 1975) Đảng phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng trong cả nước, phải đối mặt với hàng loạt vấn đề phức tạp không thể tìm câu trả lời có sẵn trong bất cứ sách vở nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu câu hỏi: “Trong những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội?”(3).Người chỉ rõ: “Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”(4).

Lãnh đạo cách mạng XHCN, một nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn, phức tạp, Đảng phải vừa học vừa làm. Hai mươi năm xây dựng CNXH ở miền Bắc, 10 năm đầu xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước, bên cạnh những nỗ lực tìm tòi sáng tạo đưa đến nhiều thành tựu to lớn không ai có thể phủ nhận, Đảng cũng đã phạm những sai lầm. Do trình độ hạn chế, chưa vượt qua được những giáo điều trong tư duy lý luận về CNXH, chúng ta đã phạm sai lầm sao chép rập khuôn mô hình kinh tế và cơ chế kinh tế của các nước XHCN đi trước (sai lầm này nếu nhìn nhận một cách khách quan là khó tránh khỏi). Tư duy về CNXH chưa vượt khỏi mô hình Xôviết, nhưng lại xem nhẹ kinh nghiệm Xôviết những năm 1920, nhất là bài học từ Chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin, thực chất là bài học về quá độ gián tiếp lên CNXH - một tất yếu không tránh khỏi đối với các nước đi lên từ nông nghiệp, sản xuất nhỏ. Chủ quan duy ý chí đi đôi với bảo thủ trì trệ biểu hiện ở chỗ kéo dài quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.

Hậu quả các sai lầm kể trên thật nặng nề. Đến cuối những năm 1970, nền kinh tế - xã hội đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng: sản xuất nông nghiệp - ngành sản xuất chính - ngày càng sa sút, nông dân không còn hăng hái sản xuất; sản xuất công nghiệp tuy theo thống kê vẫn tăng về giá trị, nhưng đại đa số nhà máy, xí nghiệp trong tình trạng “lãi giả lỗ thật” vì được Nhà nước bao cấp tràn lan; lưu thông phân phối ách tắc, lạm phát với tốc độ “phi mã”, chỉ số bán lẻ vào năm 1986 tăng 774,7%. Toàn Đảng, toàn dân đều cảm thấy không thể làm ăn và sống như cũ được nữa.

Đổi mới là tất yếu, là mệnh lệnh của cuộc sống. Đời sống hàng triệu quần chúng nhân dân và vận mệnh của CNXH yêu cầu phải đổi mới, không thể do dự, chần chừ. Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã nghiêm khắc tự phê bình sai lầm chủ quan duy ý chí trên những chủ trương, chính sách lớn, ở tầm chỉ đạo chiến lược trong cải tạo XHCN và xây dựng CNXH trước đây, đồng thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển. Công cuộc đổi mới vừa thực hiện được mấy năm thì trên thế giới liên tiếp xảy ra những biến động lớn với sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Trong khi đó, Mỹ vẫn kéo dài chính sách cấm vận kinh tế và thương mại chống Việt Nam. Chính trong những hoàn cảnh khó khăn ấy đã xuất hiện từ các địa phương, cơ sở, nhiều sáng tạo của nhân dân, những sáng tạo này thật ra vốn đã có mầm mống từ rất sớm và được phản ánh vào Nghị quyết Trung ương 6 (tháng 8-1979) và những chủ trương của Bộ Chính trị và của Chính phủ sau đó về khoán sản phẩm và khoán hộ trong nông nghiệp, về mở rộng quyền tự chủ cho các xí nghiệp công nghiệp trong sản xuất kinh doanh.

Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng và những hội nghị Ban Chấp hành Trung ương giữa các kỳ đại hội đã tiếp tục phát triển, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối đổi mới do Đại hội VI khởi xướng.

Đổi mới không chỉ là sửa chữa sai lầm, điều chỉnh một số chính sách mà là một sự thay đổi có tính bước ngoặt trong quan niệm và phương thức xây dựng CNXH, trước hết trên lĩnh vực kinh tế. Đổi mới tạo ra những chuyển đổi thật căn bản: từ một nền kinh tế dựa trên công hữu tư liệu sản xuất với hai hình thức quốc doanh và tập thể chuyển qua nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo; từ nền kinh tế căn bản có tính hiện vật chuyển sang nền kinh tế hàng hóa; từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có kế hoạch định hướng; từ một nền kinh tế khép kín, chủ yếu chỉ giao lưu trong khối XHCN, chuyển thành một nền kinh tế mở cửa với thị trường thế giới.

Về cơ cấu xã hội, từ chỗ thuần nhất với hai giai cấp, một tầng lớp là công nhân, nông dân tập thể, trí thức XHCN chuyển sang cơ cấu mới gồm nhiều giai tầng và nhóm xã hội gắn với kinh tế nhiều thành phần. Quan hệ lợi ích cũng thay đổi sâu sắc: từ kiểu quan hệ lợi ích tương đối giản đơn, “thuần khiết” trên cơ sở chế độ công hữu và cơ chế kế hoạch tập trung chuyển sang kiểu quan hệ lợi ích mới phức tạp, đa dạng, với những mâu thuẫn mới nảy sinh từ cơ chế thị trường nhiều thành phần, đa sở hữu.

Đó là những thay đổi hợp quy luật, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do đó thúc đẩy mạnh mẽ sự tăng trưởng kinh tế. Công cuộc đổi mới đã thu được những thắng lợi to lớn, rất quan trọng.

Trước hết, đổi mới đã giải phóng lực lượng sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Nổi bật là thắng lợi trên lĩnh vực nông nghiệp. Từ tình trạng thiếu ăn triền miên, Việt Nam vươn lên trở thành một trong số ít nước xuất khẩu gạo lớn thứ nhất thế giới. Thắng lợi trong nông nghiệp ban đầu là thắng lợi của chính sách “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động”, sau đó là của chủ trương lấy hộ xã viên làm đơn vị sản xuất chính với sự hỗ trợ của kinh tế hợp tác, kết hợp sức mạnh tập thể với sức mạnh cá nhân người lao động và hộ gia đình. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.

Trong công nghiệp, đổi mới bắt đầu bằng từng bước trao quyền tự chủ cho xí nghiệp trong sản xuất kinh doanh; dần dần xóa bỏ bao cấp tràn lan đối với các xí nghiệp quốc doanh, buộc các xí nghiệp đi vào hạch toán kinh tế, gắn sản xuất với thị trường trong và ngoài nước, từng bước đổi mới thiết bị, công nghệ, cải tiến quản lý, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm làm ra. Sau vài năm phấn đấu để thích ứng với cơ chế mới, từ năm 1991 trở đi, sản xuất công nghiệp trong nước liên tục đạt tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu. Đã đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao.

Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực. Quan hệ kinh tế đối ngoại được rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, từng bước phát triển giao lưu với khu vực và thế giới.

Trên cơ sở kinh tế phát triển, đã tạo được sự chuyển biến tiến bộ về mặt xã hội. Đời sống các tầng lớp nhân dân, trước hết là những người lao động, được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người từ khoảng 200 USD năm 1990 tăng lên 375 USD năm 1999. Năm 2014, GDP bình quân đầu người đạt gần 2.100 USD. Chính sách “xóa đói, giảm nghèo” đi đôi với khuyến khích làm giàu chính đáng theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm” đã phát huy tác dụng tích cực rõ rệt. Cùng với số người khá giàu ngày càng tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước giảm còn chưa đến 8%. Các mặt văn hóa, giáo dục, y tế cộng đồng có bước phát triển khá.

Đã thực hiện có kết quả một số đổi mới về hệ thống chính trị theo hướng mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, làm cho hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu của đổi mới kinh tế, thực hiện mục đích căn bản là phát triển nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

Sau 10 năm đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và từ năm 1996 đã bước sang giai đoạn phát triển mới, giai đoạn CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Trong những năm qua, toàn Đảng, toàn dân ta ra sức thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đã đạt những thành tựu quan trọng như: GDP tiếp tục tăng trưởng với tốc độ khá dù gặp khó khăn do bị thiên tai liên tiếp, nặng nề và do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực và trên thế giới; văn hóa, xã hội có những tiến bộ mới; đời sống nhân dân được cải thiện thêm một bước; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh quốc gia; công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng được đẩy mạnh, hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới theo hướng dân chủ hóa, pháp chế hóa; quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng.

Những thành tựu đạt được trong 30 năm qua là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.

2. Đảng phải vươn lên tranh thủ thời cơ, vượt qua những thách thức mới để ngang tầm nhiệm vụ trong giai đoạn mới

Bên cạnh những thành tựu nói trên, công cuộc đổi mới còn không ít khó khăn tồn tại. Thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có những vấn đề gay gắt bức xúc. Khó khăn thử thách ở phía trước còn rất to lớn. Có những yếu kém do lịch sử để lại hoặc do điều kiện khách quan chưa thể khắc phục một sớm, một chiều. Có những yếu kém chủ quan làm trầm trọng thêm những khó khăn khách quan. Có thể nói khái quát về những khó khăn tồn tại là đất nước còn nghèo, mới ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nền kinh tế tăng trưởng chưa vững chắc, sức cạnh tranh thấp, nhịp độ tăng trưởng có chiều hướng chậm lại, tuy gần đây đã có dấu hiệu nhích lên. Vốn đầu tư nước ngoài, một nhân tố quan trọng của phát triển kinh tế, đang giảm mạnh, mới đây có phục hồi nhưng còn chậm. Một số vấn đề xã hội phức tạp, nhức nhối như tham nhũng, buôn lậu, các tệ nạn ma tuý, mại dâm... chưa được giải quyết có hiệu quả.

Thử thách đối với Đảng không chỉ ở hoàn cảnh quốc tế biến đổi phức tạp mà nằm ngay trong những điều kiện và môi trường hoạt động mới do chính công cuộc đổi mới tạo ra. Đảng lãnh đạo xây dựng CNXH trong điều kiện kinh tế thị trường với hàng loạt vấn đề mới, những mâu thuẫn mới chưa bao giờ gặp phải, cả về lý luận và thực tiễn, những vấn đề chưa hề thấy trong sách vở mácxít và trong kinh nghiệm thực tế. Chẳng hạn các vấn đề như CNXH có kết hợp được với kinh tế thị trường hay kinh tế thị trường  tự nó sẽ triệt tiêu CNXH? Kinh tế nhà nước có thể đóng vai trò chủ đạo được không, nếu như các thành phần kinh tế đều thực sự bình đẳng? Vì sao nhiều xí nghiệp quốc doanh thường kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ, có phải do bản chất chế độ công hữu? Làm gì và làm như thế nào để cơ cấu lại và nâng cao tính hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước? Cần phải sắp xếp lại, thậm chí có thể giảm tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước nhưng giảm đến mức độ nào là phù hợp và vẫn giữ được định hướng XHCN trong nền kinh tế? Sự phát triển kinh tế tư nhân TBCN không giới hạn có thể trở thành nguy cơ đối với chế độ XHCN hay không? Chúng ta kiên trì chế độ một đảng cộng sản lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, nhưng trong điều kiện một đảng cầm quyền, cần phải có những điều kiện, những giải pháp và cơ chế gì để bảo đảm sự phát triển mạnh mẽ nền dân chủ XHCN?...

Những vấn đề phải giải quyết rất nhiều và rất không đơn giản. Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng cố gắng vừa làm vừa học, vừa tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, đang cố gắng tháo gỡ các vướng mắc trong thực tiễn đổi mới, qua đó làm cho nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng cụ thể hơn, rõ nét hơn và điều này được thể hiện tập trung ở Cương lĩnh xây dựng đất nước, ở các nghị quyết các kỳ đại hội và hội nghị trung ương kể từ Đại hội VI đến nay và đặc biệt ở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).

Những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 30 năm đổi mới làm cho thế và lực của đất nước lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Đất nước còn nhiều tiềm năng về tài nguyên lao động. Nhân dân Việt Nam có nhiều phẩm chất quý báu. Tình hình chính trị - xã hội ổn định. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại tiếp tục diễn ra như vũ bão và hứa hẹn nhiều thành tựu kỳ diệu chưa thể lường hết. Trong khi đó, sự giao lưu thương mại và kinh tế quốc tế, sự hợp tác, liên kết giữa các nước ngày càng phát triển tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực, nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là cơ hội lớn để tạo ra bước phát triển mới. Nhưng cơ hội lớn không tự nó đem lại điều ta mong muốn. Để tận dụng được thuận lợi và cơ hội lớn, Đảng cũng phải thật mạnh, có đường lối đúng đắn, sáng suốt, không như vậy thì thuận lợi và cơ hội dù lớn cũng sẽ không thể nắm bắt được để phát huy và rồi sẽ qua đi. Trong khi khẳng định thuận lợi, cơ hội và những chỗ mạnh cơ bản của Đảng, chúng ta không quên những thách thức và nguy cơ.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994) đã nêu lên bốn nguy cơ: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch(5). Đại hội Đảng lần thứ VIII (6-1996) chỉ rõ: “Các nguy cơ đó có mối liên hệ tác động lẫn nhau và đều nguy hiểm, không thể xem nhẹ nguy cơ nào”(6).Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ - tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ nạn quan liêu, “diễn biến hòa bình” do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào”(7).

Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của Việt Nam quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Ngày nay, những nước lạc hậu về kinh tế đứng trước hai khả năng: nếu biết tranh thủ thời cơ, có đường lối và chiến lược phát triển đúng, thông minh, sáng tạo thì hoàn toàn có thể vươn lên, đi nhanh, sớm khắc phục tình trạng kém phát triển, sớm tiến kịp các nước đi trước. Nhưng khả năng xấu có thể xảy ra nếu thiếu đi những nhân tố chủ quan vừa nói khiến đất nước không thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, tụt hậu ngày càng xa hơn, thậm chí có thể bị gạt ra ngoài lề con đường phát triển. Trên thực tế như đã thấy trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, chỉ một số rất ít trong hàng trăm nước đang phát triển có khả năng thoát khỏi tình trạng kém phát triển, còn đa số vẫn trong tình trạng hết sức khó khăn. Cho nên nguy cơ tụt hậu là rất lớn. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam vững tin rằng với sức mạnh của độc lập dân tộc và CNXH, biết kết hợp sức mạnh tổng hợp của nội lực dân tộc với sức mạnh thời đại, Việt Nam nhất định chiến thắng được nghèo nàn, lạc hậu như đã chiến thắng giặc ngoại xâm.

Những năm tới là đoạn đường cực kỳ quan trọng để thu hẹp bớt khoảng cách với các nước. Phải đẩy mạnh CNH, HĐH, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN, phát huy cao độ nội lực của cả dân tộc gắn với tận dụng mọi nguồn lực bên ngoài và chủ động mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh. Phải định hình được về cơ bản thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ra sức tăng cường nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh. Củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đó là những yêu cầu lớn đặt ra đối với nước ta trong bối cảnh hiện nay.

Đối với Việt Nam, phát triển nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng là vấn đề sống còn. Chỉ có phát triển nhanh và đúng hướng mới tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn, mới giữ vững được độc lập dân tộc và CNXH. Đặt công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm có nghĩa là coi việc phát triển lực lượng sản xuất là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là vấn đề ưu tiên số một. Mọi cơ chế, thể chế cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất, làm chậm công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đều cần được bãi bỏ, sửa đổi. Mục tiêu quan trọng hàng đầu của đổi mới chính là giải phóng lực lượng sản xuất.

Tuy nhiên, phát triển lực lượng sản xuất không phải là duy nhất, càng không phải là tất cả. Phát triển lực lượng sản xuất, tiến hành cách mạng khoa học công nghệ là vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tóm lại là vì con người. Vì thế, phát triển kinh tế không những phải nhanh, có những đột phá, mà còn phải bền vững; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Có kết hợp được hài hòa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, lấy tăng trưởng kinh tế làm cơ sở, thì mới bảo đảm tăng trưởng kinh tế ổn định bền vững. Đương nhiên làm được điều đó không giản đơn. Phải xem xét cẩn thận mặt phải, mặt trái của các giải pháp. Tăng trưởng kinh tế nhất thiết phải theo định hướng XHCN, nhất thiết phải đi đôi với giữ vững độc lập tự chủ. Không thể xem tăng trưởng là tất cả, coi nhẹ định hướng xã hội và chính trị. Trong trường hợp đó có thể có tăng trưởng mà không phát triển, thậm chí có thể là phản phát triển. Như thế là chệch hướng. Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu càng phải đối mặt với những vấn đề mới mẻ, phức tạp. Có khi loay hoay mãi không tìm ra giải pháp mới, thích hợp, người bảo thủ thường dễ quay về những bài bản cũ, đã quen thuộc, đó là một dạng chệch hướng phải hết sức tránh. Dạng chệch hướng nguy hiểm khác là “đổi mới” thiếu nguyên tắc. Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm khẳng định (từ tháng 3-1989 tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI) năm quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, trong đó nguyên tắc đầu tiên là: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện tốt hơn bằng những quan niệm đúng đắn, hình thức, biện pháp và bước đi thích hợp.

Phát triển theo định hướng XHCN đòi hỏi giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Ở đây không thể dừng lại ở những chủ trương chung chung mà đòi hỏi phải tìm tòi, sáng tạo ra các hình thức kinh tế cụ thể, phù hợp.

Trong tổng thể các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất quá độ lên CNXH, nhân tố hàng đầu bảo đảm định hướng XHCN là vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, là hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Nếu thiếu vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thì căn bản không thể nói đến định hướng XHCN, không thể công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công, sẽ không có cơ sở vật chất chủ yếu nhất bảo đảm quyền làm chủ kinh tế của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, bảo đảm vai trò kinh tế và chính ngay sự tồn tại của Nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân. Chính vì thế, việc đổi mới và nâng cao tính hiệu quả của kinh tế nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Đó phải là trọng tâm trong xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, là một trọng điểm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Việc nâng cao tính hiệu quả của kinh tế nhà nước, của các doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp, dịch vụ và cả trong nông, lâm nghiệp đang là một thách thức cực kỳ to lớn bởi trong thực tế đây là nhiệm vụ đầy gian khổ, khó khăn. Song dù khó khăn, gian khổ đến đâu cũng không thể chần chừ, dao động, thiếu quyết tâm, không thể không làm chừng nào chúng ta còn nhân danh CNXH.

Trong xây dựng kinh tế hợp tác đã từng có bài học chủ quan nóng vội. Không thể lặp lại sai lầm cũ. Song điều đó không có nghĩa là thả nổi để cho quan hệ sản xuất ở nông thôn biến động một cách tự phát dẫn đến phân cực giàu - nghèo một cách vô giới hạn dưới tác động của thị trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn theo định hướng XHCN đòi hỏi từng bước xây dựng chế độ hợp tác. Hình thức kinh tế công hữu, tập thể, hợp tác xã trong nông nghiệp sẽ như thế nào, chắc chắn là hết sức đa dạng, nhiều trình độ cao thấp khác nhau, câu trả lời phải từ cuộc sống, từ yêu cầu khách quan của phát triển sản xuất, của quần chúng nông dân, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn hình thức hợp tác thích hợp, tuyệt đối không gò ép, áp đặt. Trong thực tế cuộc sống ở nông thôn miền Bắc, miền Trung, miền Nam đang xuất hiện ngày càng nhiều những hình thức hợp tác đa dạng, từ hợp tác xã kiểu cũ chuyển đổi đến các hình thức hợp tác mới ra đời, nhưng do chưa quán triệt sâu sắc quan điểm đường lối của Đảng về kinh tế hợp tác nên còn khuyết điểm, coi nhẹ việc tổng kết kinh nghiệm và thiếu quan tâm đúng mức trong chỉ đạo thực tiễn.

 Kinh nghiệm các nước và kinh nghiệm Việt Nam cho thấy, muốn tranh thủ tối đa ngoại lực như vốn đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, phải dựa vào nội lực là chính. Phát huy nội lực, trước hết phải có đường lối, chính sách đúng đắn, thông minh, sáng tạo và không chỉ nói đến nguồn lực vật chất mà phải coi trọng hàng đầu nguồn lực con người - con người Việt Nam với những phẩm chất truyền thống quý báu, đặc biệt là lòng yêu nước, với tài trí thông minh, với ý chí quyết không cam chịu cảnh đất nước nghèo hèn.

Vấn đề quan trọng là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, cơ sở của độc lập về chính trị, với quan hệ kinh tế quốc tế trong xu thế thế giới toàn cầu hóa. Đó là vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách. Nếu có đường lối, phương hướng phát triển đúng thì hai mặt này không loại trừ nhau, mà kết hợp chặt chẽ với nhau vì mục đích phát triển đất nước như hai cánh của một con chim. Chỉ có trên cơ sở độc lập tự chủ mới tham gia hợp tác kinh tế quốc tế có hiệu quả, mới chủ động tranh thủ được cơ hội để phát triển, mới hấp thụ được nguồn lực từ bên ngoài. Ngược lại, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế một cách chủ động, đúng đắn, không phải do sức ép từ bên ngoài hoặc do cái thế buộc phải hội nhập một cách bị động, mà vì mục đích phát triển đất nước và biết cách tận dụng cái lợi, giảm thiểu tối đa cái hại một cách thật khôn ngoan thì mới xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ. Kinh nghiệm cho thấy, tham gia toàn cầu hóa trong điều kiện khi mà một số nước giàu và một số công ty siêu quốc gia khổng lồ còn nắm bá quyền thao túng, áp đặt thì đây không phải là một quá trình “ngon lành”, suôn sẻ như có người tưởng, mà là một quá trình đấu tranh gay go, phức tạp để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích nhân dân và đối với nước ta còn là lợi ích của chủ nghĩa xã hội.

Việt Nam chủ trương mở cửa kinh tế trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc; bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh với những ý đồ sai trái để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc và con đường XHCN đã lựa chọn. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, luôn đề cao cảnh giác trước mọi dã tâm đen tối của các thế lực xấu và thù địch. Đảng chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng và an ninh; xây dựng CNXH đi đôi với bảo vệ Tổ quốc XHCN.

(Còn nữa)

 

________________________________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2015

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.267-268.

(2) Sđd, t.1, tr.28.

(3), (4) Sđd, t.8, tr.494.

(5) Xem: ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, tháng 1-1994, tr.25.

(6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.18.

(7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.67.

GS Nguyễn Đức Bình

Thông tin tuyên truyền