Trang chủ    Diễn đàn    Tung tin “đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên bị ngược đãi, phân biệt đối xử” là vu khống, xuyên tạc sự thật
Thứ ba, 26 Tháng 1 2016 09:30
5517 Lượt xem

Tung tin “đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên bị ngược đãi, phân biệt đối xử” là vu khống, xuyên tạc sự thật

(LLCT) - Gần đây, một số thế lực thù địch và những phần tử phản động trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã tung tin bịa đặt về cái gọi là: “đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên bị ngược đãi, phân biệt đối xử”, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm xói mòn niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với Đảng, chế độ và quân đội ta.

(Tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây Nguyên tại Quảng trường Đại đoàn kết Thành phố Pleiku)

Song sự thật đang diễn ra trong đời sống hằng ngày của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, hệ thống luật pháp, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là bằng chứng sinh động đập tan những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, bịa đặt đó.

Thứ nhất, Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước trên tinh thần bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm chính sách dân tộc, chăm lo đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số Nam Bộ tại Pleiku năm 1946, Người viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói có nhau”(1).

Quan điểm nhất quán của Đảng về công tác dân tộc, chính sách dân tộc là: “…đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam” và “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc,…Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc”(2).

Các quan điểm, đường lối của Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp, các bộ luật thể hiện nội dung về chính sách dân tộc. Hiến pháp năm 1946 đã thể hiện rõ chính sách đại đoàn kết, quyền bình đẳng của mọi công dân, không phân biệt đối xử với bất kỳ dân tộc nào: “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung”(3).

Điều 5, Hiến pháp năm 2013 khẳng định rõ chính sách đoàn kết, không phân biệt và giúp nhau giữa các dân tộc: “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”(4). Quyền của các dân tộc thiểu số còn được quy định rõ hơn tại Điều 42: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”; Điều 61 ghi: “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn...”.

Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng cơ bản chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó có việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các dân tộc thiểu số. Trong giai đoạn 2006-2012, Nhà nước đã ban hành 160 văn bản quy phạm pháp luật về chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi. Thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình, dự án với kinh phí đầu tư  lên tới 55 nghìn tỷ đồng (2,6 tỷ USD). Nhiều chính sách, chương trình, dự án đã phát huy tốt hiệu quả, như Nghị quyết số 30a/2008/NĐ-CP của Chính phủ về giảm nghèo bền vững; Chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo... Tính đến tháng 12-2012, các tỉnh Tây Nguyên đã thực hiện hỗ trợ 42.332 căn nhà(5), đạt 103% số hộ so với đề án ban đầu. Trong đó, hộ đồng bào dân tộc được hỗ trợ nhà ở là 21.284 căn, hộ thuộc 62 huyện nghèo là 3.240 căn; hộ thuộc vùng khó khăn theo Quyết định 30/2007/QĐ- TTg được hỗ trợ là 17.808 căn. Kết quả huy động vốn là 980,88 tỷ đồng. Đã giải ngân 935,871 tỷ đồng, đạt 95, 41%(6)

Theo Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản, Đề án Hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2011- 2015 (Chương trình 167 giai đoạn 2), thì cả nước có 515.382 hộ với mức đầu tư là 6.871,66 tỷ đồng; trong đó các tỉnh Tây Nguyên có tổng số hộ nghèo khó khăn về nhà ở giai đoạn 2 là 44.850 hộ với mức đầu tư là 631 tỷ đồng (tỉnh Kon Tum 5.187 căn; Đăk Lăk 20.637 căn; Gia Lai 13.015 căn; Đăk Nông 2.261 căn và Lâm Đồng 3.750 căn). Hỗ trợ người nghèo về nhà ở là một chính sách có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, giúp đồng bào nghèo trong cả nước nói chung và các tỉnh Tây Nguyên nói riêng có nhà ở ổn định, từng bước nâng cao mức sống, góp phần bảo đảm an sinh xã hội.

Thứ hai, đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên được bình đẳng về chính trị

Từ thực tế, chúng ta có thể khẳng định trong nhiều năm qua, đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên luôn được tạo điều kiện tham gia xây dựng hệ thống chính trị, quản lý xã hội, quản lý nhà nước: số lượng đại biểu là người dân tộc thiểu số trong Quốc hội các khóa luôn chiếm tỷ lệ cao hơn so với tỷ lệ người dân tộc thiểu số trong tổng dân số cả nước.  Ở các địa phương, tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia chính quyền các cấp ngày càng tăng. Chẳng hạn ở tỉnh Gia Lai, nhiệm kỳ 2011 - 2016, đại biểu dân tộc thiểu số trong Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là 18%, cấp huyện là 20%, cấp xã là 22,5%. Nhiều người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đã và đang giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan lãnh đạo, các cơ quan quyền lực của đất nước như Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội - Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và cán bộ chủ chốt ở các cấp.

Thứ ba, văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên được bảo tồn và được tôn trọng

Ngày 27-7-2011, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” với nội dung tập trung ưu tiên bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người. Thực hiện chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, văn hóa truyền thống các dân tộc ở Tây Nguyên được tôn vinh, bảo tồn, đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số được nâng cao. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên - Di sản văn hóa phi vật thể  trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên: Ba Na, Xêđăng, Mnông, Cơho, Rơmăm, Ê Đê, Gia Rai... là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn, biểu tượng thiêng liêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, được quan tâm bảo tồn và phát huy giá trị.

Trong những năm qua, công tác thông tin, tuyên truyền cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo theo Quyết định số 1212/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ được triển khai thực hiện và đạt được những kết quả đáng ghi nhận ở Tây Nguyên. 19 loại báo, tạp chí được cấp miễn phí tới các buôn làng xa xôi vùng dân tộc thiểu số, góp phần quan trọng trong việc phản ánh, giới thiệu nhiều mô hình sản xuất tiên tiến, hướng dẫn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp, nhất là giúp người dân biết cách bảo vệ, giữ gìn truyền thống văn hóa và từ bỏ các hủ tục lạc hậu... Nhiều cán bộ, đảng viên đã tích cực tìm hiểu kiến thức trên báo chí để truyền đạt lại cho đồng bào các dân tộc trong thôn, làng... Các đài Phát thanh - Truyền hình của 5 tỉnh ở Tây Nguyên thường xuyên tổ chức các chương trình để tôn vinh, quảng bá truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số. Đài Phát thanh - Truyền hình Gia Lai đã chính thức phát sóng Chương trình truyền hình tiếng dân tộc (với 2 ngữ chính là Ba Na và Gia Rai) từ tháng 5-2001.

Quyền được sử dụng tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên được đặc biệt quan tâm. Nhà nước có nhiều chính sách bảo tồn, sử dụng và phát triển ngôn ngữ các dân tộc thiểu số. Sự ra đời của của các loại Từ điển như Việt - Gia Rai, Việt - Ê Đê, Từ điển điện tử phương ngữ Ba Na - Việt là Từ điển điện tử đầu tiên về ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã cho thấy những nỗ lực không ngừng của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực này.

Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật”(7).

Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng, không phân biệt đối xử giữa những người theo tôn giáo và những người không theo tôn giáo, giữa các tôn giáo khác nhau, giữa những người dân tộc thiểu số theo tôn giáo và người Kinh theo tôn giáo. Theo số liệu thống kê, đến hết năm 2011 tại Tây Nguyên chính quyền đã công nhận 185 chi hội, 1.268 điểm nhóm hoạt động tôn giáo, với trên 400 nghìn người theo đạo Tin Lành. Tổng Liên hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đã xuất bản 30 nghìn quyển kinh thánh bằng tiếng Ba Na, Gia Rai, Ê Đê phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn xuất phát từ lợi ích của nhân dân, tôn trọng quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn trọng và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc. Do đó, những luận điệu về quyền dân tộc bị vi phạm, về sự phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số... là sự vu khống, xuyên tạc trắng trợn của các thế lực thù địch, là bịa đặt hoàn toàn, không có căn cứ, đi ngược lại với truyền thống đạo lý của dân tộc, hòng chống phá sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng XHCN mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn r

___________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2015

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.249.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 81.

(3) Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 (Điều 8 in trong cuốn Tuyên ngôn độc lập và các bản Hiến pháp Việt Nam,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012).

(4) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.10.

(5) Tỉnh Kon Tum đã hỗ trợ 8.378 căn nhà; Đăk Lăk 13.220 căn; Gia Lai 10.499 căn; Đăk Nông 2.415 căn; Lâm Đồng 7.820 căn. Đặc biệt, tỉnh Đăk Lăk là một trong 9 tỉnh hoàn thành kế hoạch hỗ trợ nhà ở cho người nghèo trước 1 năm, được Thủ tướng Chính phủ khen thưởng.

(6) Thiên Phương, Báo Nhân Dân,số 21298, ngày 8-1-2014, tr.3.

(7) Điều 24, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.

 

TS Lê Văn Liêm

Học viện Chính trị khu vực III

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền