Trang chủ    Diễn đàn    Một số điểm mới về quyền của bị can, bị cáo trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015
Thứ sáu, 09 Tháng 12 2016 09:27
5308 Lượt xem

Một số điểm mới về quyền của bị can, bị cáo trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015

(LLCT) - BLTTHS 2015 có một số quy định mới về quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng; khắc phục tình trạng bức cung, dùng nhục hình đối với bị can, bị cáo.

Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân luôn được Đảng và Nhà nước ta tôn trọng và được bảo đảm. Hiến pháp năm 2013 đã dành một chương riêng (chương II) quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bao gồm 36 điều từ điều 14 đến điều 49. Có thể nói quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân không tách rời nhau.

Đối với người phạm tội (hay còn gọi là bị can, bị cáo) trong quá trình tiến hành tố tụng, quyền của bị can, bị cáo cũng được tôn trọng và được bảo đảm. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”(1).

Khái niệm pháp lý về bị can được quy định lần đầu trong BLTTHS năm 1988 (Điều 34) và được sử dụng lại nguyên văn trong Điều 49 BLTTHS năm 2003 và Điều 60 BLTTHS năm 2015.

Theo Điều 60 BLTTHS năm 2015 thì:“Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”(2).

Theo Điều 50 BLTTHS năm 2003, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Điều 61 BLTTHS năm 2015 quy định: “Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”(3).

Như vậy, giữa hai BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015 về cơ bản khái niệm bị can và bị cáo cũng không có điểm khác biệt về thời điểm xác định tư cách bị can, bị cáo. Chỉ có điểm khác biệt là BLTTHSnăm 2015 đã bổ sung một chủ thể mới của cả bị can và bị cáo đó là pháp nhân. Việc bổ sung này là dựa trên yêu cầu khách quan của thực tiễn, trong đó những tổ chức là pháp nhân thường có những hành vi phạm tội về các vấn đề như môi trường, thuế, chứng khoán, bảo hiểm...mà BLTTHS năm 2003 không có chế tài xử lý đối với pháp nhân này mà chỉ áp dụng hình thức xử lý hành chính nên dẫn tới việc bỏ lọt tội phạm. Việc quy định thêm chủ thể là pháp nhân đã khắc phục được những hạn chế này và chỉ có pháp nhân thương mại mới chịu trách nhiệm hình sự.

Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự là một vấn đề rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp quá trình tiến hành tố tụng. BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi so với BLTTHS năm 2003, không những quy định cụ thể, rõ ràng hơn mà còn mở rộng quyền của bị can, bị cáo giúp đảm bảo tính công bằng,công khai trong việc thực thi pháp luật hình sự.

Về quyền của bị can:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015, bị can có những quyền sau đây:

a) Được biết lý do mình bị khởi tố;

b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

c) Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

g) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;

h) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;

i) Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;

k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Có thể thấy, so với Điều 49 BLTTHS năm 2003 thì bị can có một số quyền mới sau:

Một là, quyền “Được biết lý do mình bị khởi tố”. Bị can cần phải biết họ bị khởi tố về tội gì, và tại sao mình lại bị khởi tố, không có quyền đó thì họ không thể thực hiện được quyền bào chữa của mình. Việc giải thích cho bị can quyền và nghĩa vụ và lý do mình bị khởi tố cũng chính là để bị can nắm bắt được thông tin, chủ động trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình. Trách nhiệm giải thích cho bị can trong trường hợp này thuộc về Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát và phải được ghi lại nội dung theo biên bản hỏi cung, đưa vào hồ sơ vụ án, đồng thời giúp bị can biết được các quyền để chống lại khi bị xâm hại đến tính mạng, sức khỏe một cách trái pháp luật.

Hai là, quyền được “…trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.Đây là một trong những quyền quan trọng của bị can, bị cáo và giải quyết được những bất cập trong các vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng lời khai bất lợi cho bị can, bị cáo hoặc chỉ sử dụng duy nhất lời nhận tội của họ để kết tội khi đưa ra truy tố, xét xử. Như vậy, bị can, bị cáo đều có quyền tự chủ về việc khai báo. Những gì bất lợi, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Khi làm việc với các cơ quan tố tụng, họ có thể không trả lời một số câu hỏi mà họ cho là chống lại họ và cũng không buộc phải khai nhận mình có tội, quy định này nhằm bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, tạo sự nhận thức thống nhất trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung. Trên thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng luôn mong đợi sự hợp tác của người bị buộc tội, nhưng nếu không nhận được sự hợp tác tích cực của người bị buộc tội thì cũng không thể coi đó là tình tiết tăng nặng được. Bộ luật Hình sự cũng không coi người bị buộc tội không trả lời cơ quan, người tiến hành tố tụng những vấn đề bất lợi cho bản thân, không buộc phải nhận tội hay “ngoan cố, không khai báo thành khẩn” là tình tiết tăng nặng. Bị can, bị cáo có quyền khai báo sau khi được giải thích về quyền này. Việc nhận tội của bị can, bị cáo luôn được xem là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Như vậy, với quy định mới về quyền này của bị can, tình trạng bức cung, dùng nhục hình sẽ được giảm thiểu. Khi bị can sử dụng quyền này thì Cơ quan điều tra phải chứng minh họ phạm tội bằng chứng cứ chứ không thể bằng lời cung hoặc bức cung, dùng nhục hình… Như vậy, mục đích muốn điều tra phá án nhanh bằng biện pháp có chủ đích đã không được thỏa mãn. Đó là ý nghĩa của quyền im lặng trong việc chống bức cung, nhục hình, dẫn đến oan sai. Đó cũng là tiền đề quan trọng để thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng.

Ba là, quyền được “Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Sau khi đưa ra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, để có thể tự gỡ tội cho mình hoặc dùng làm tình tiết giảm nhẹ, bị can có quyền trình bày ý kiến của mình về những vật đó, và nếu cần thiết có thể yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá về tính xác thực, đúng đắn của những vật này.

Bốn là, quyền được “Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu”.Phải bảo đảm cho bị can xem xét tất cả những tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội cũng như việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra để cho bị can biết mình bị buộc tội gì và bằng những chứng cứ nào. Từ đó, bị can có thể thực hiện tốt quyền bào chữa của mình. Bị can được xem xét tài liệu sẽ giúp cho việc khắc phục những thiếu sót và không đầy đủ trong quá trình điều tra cũng như việc tiến hành điều tra được khách quan và toàn diện. Điều này càng làm cho Điều tra viên có trách nhiệm hơn trong quá trình tiến hành điều tra vụ án.

Về quyền của bị cáo:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015, bị cáo có những quyền sau đây:

a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;

b) Tham gia phiên tòa;

c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;

đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;

h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;

k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;

l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;

m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Có thể thấy, so với Điều 50 BLTTHS năm 2003 thì bị cáo có một số quyền mới sau:

Một là, quyền được“Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Thường thì những chứng cứ, tài liệu, đồ vật này có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử khi nhận được các chứng cứ, tài liệu, đồ vật do bị cáo cung cấp thì phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các chứng cứ, tài liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không? và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án.

Hai là, quyền được “Trình bày lời khai, …, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.Tại phiên toà trước Hội đồng xét xử, bị cáo có quyền được trình bày về lời khai của mình, hoặc họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước Hội đồng xét xử.

Ba làquyền “Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa”.Việc đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa sẽ làm tăng tính chủ động cho bị cáo, giúp bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình được tốt hơn, việc hỏi cũng như đối chất trực tiếp tại phiên tòa sẽ là căn cứ quan trọng làm cho việc xét xử được khách quan hơn cũng như tăng tính thuyết phục hơn.

Bốn làquyền được “Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa”.Để tránh sai sót trong việc ghi chép lại quá trình diễn ra tại phiên tòa, bị cáo có quyền xem biên bản phiên tòa và yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản đó, điều này đồng nghĩa với việc bị cáo đồng ý với quá trình xét xử nếu không có những yêu cầu bổ sung hoặc thay đổi khác.

Năm làbị cáo còn có “Các quyền khác theo quy định của pháp luật”. Những quyền này sẽ được thể hiện rõ sau khi các văn bản hướng dẫn có hiệu lực.

Như vậy, những điểm mới về quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Những quy định mới này đòi hỏi Điều tra viên phải sử dụng các kỹ năng để thu thập những chứng cứ buộc tội và gỡ tội, tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo; Kiểm sát viên phảikiểm sát chặt chẽ ngay từ khi khởi tố điều tra cho đến khi truy tố, xét xử; Thẩm phán chủ toạ phiên toà thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm tính công bằng, đúng đắn, chính xác trong quá trình xét xử. Mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải được đảm bảo thực hiện khách quan, công tâm, đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, bảo đảm việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử bị can, bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền của bị can, bị cáo.

_______________

(1)  Hiến pháp năm 2013 (Điều 31, Điều 107)

(2), (3) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Điều 60, Điều 61)

 

Nguyễn Huy Hoàn

Viện KSND huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền