Trang chủ    Diễn đàn    Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Thứ hai, 25 Tháng 9 2017 11:45
7938 Lượt xem

Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

(LLCT) - Trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với CNXH luôn là một trong những chủ đề nóng. Các thế lực thù địch cho rằng: CNXH sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, thế giới đương đại là thế giới đi theo con đường TBCN nên Việt Nam không thể giữ định hướng XHCN. Những luận điệu đó đã tác động nhất định đối với một số người nhẹ dạ, cả tin. Chính vì thế, rất cần phải lý giải một cách cặn kẽ hơn việc Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.

Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với CNXH luôn được khẳng định. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định một trong những bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng nước ta là: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau”(1). Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới”(2).    

Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI đã chứng minh sự lựa chọn của Đảng và nhân dân ta là hoàn toàn chính xác.

Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên mạnh mẽ. Các cuộc nổi dậy liên tiếp nổ ra trên khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào: Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Hơn bao giờ hết, độc lập dân tộc trở thành yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh lịch sử đó?

Lịch sử đã có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã khẳng định CNTB nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ CSCN không có người bóc lột người và người đào huyệt chôn CNTB chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại công nghiệp TBCN. Đó là một “tiếng sét” trong lòng CNTB ở vào thời thịnh trị, sau khi chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến và bành trướng ra khắp thế giới.

Nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, Mác đã khái quát điều đó qua sự phát triển của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Theo quan điểm của Mác, sự thay đổi hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác nhất định phải có điều kiện là hình thái kinh tế - xã hội cũ đã mất khả năng tự phát triển và trở thành lực cản xã hội. CNTB tất yếu bị thay thế bằng CNXH, và điều đó sẽ xảy ra ở những nước mà CNTB phát triển đến đỉnh cao. Chính Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đã vận dụng sáng tạo các luận điểm của Mác vào hoàn cảnh lịch sử của nước Nga khi xác định: giai cấp công nhân giành lấy chính quyền, sau đó dựa vào chính quyền của mình xây dựng CNXH.

Đúng vào thời điểm CNTB tưởng như đang cực thịnh, Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra, mở đầu cho xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước Cách mạng Tháng Mười Nga, chế độ TBCN phát triển đến mức người ta rêu rao như một “định mệnh”, như một “trật tự vĩnh hằng”, thì sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, không ai không thấy cái “xiềng xích” giam hãm thế giới đã bị chặt đứt. Trật tự bị lật nhào tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.

Rõ ràng, Cách mạng Tháng Mười Nga “rung chuyển thế giới” đã làm cho tính chất thời đại, giai cấp trung tâm của thời đại, vai trò lãnh đạo cách mạng thay đổi. Vì vậy, con đường để giải quyết mâu thuẫn xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng cũng thay đổi. Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là ngọn đèn dẫn đường tỏa sáng, mà còn có những đóng góp thực tế to lớn, làm thay đổi cả những yếu tố bên trong của CNTB. Cách mạng Tháng Mười là niềm vinh quang của những người vô sản cùng với hàng trăm triệu người lao động thành thị và nông thôn nước Nga. Họ đã lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và phong kiến, giành quyền làm chủ cuộc sống của mình. Đó là thắng lợi của một xu thế mới: độc lập dân tộc và CNXH.

Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, đã tác động mạnh mẽ vào Việt Nam - nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNXH. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, bản lĩnh và tố chất đặc biệt Việt Nam “bắt gặp” chủ nghĩa Mác - Lênin chung đúc nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam làm cơ sở cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930). Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng khẳng định: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, một xã hội tốt đẹp gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái.

Như vậy, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH của Đảng và nhân dân ta là một tất yếu khách quan. Xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau. Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Độc lập dân tộc đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do quốc gia - dân tộc đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài.

Bản chất của CNXH là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, dân tộc, xã hội, con người. CNXH sẽ xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng.

CNXH thực hiện độc lập dân tộc để mở đường tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế và phong phú, đa dạng về văn hóa, tinh thần; thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với CNXH, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho nền tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập dân tộc càng đầy đủ, mạnh mẽ.

Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng những khả năng và điều kiện bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trên thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác.

Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển CNXH. Độc lập dân tộc và CNXH trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, làm nên cốt cách, bản lĩnh và vị thế Việt Nam.

Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Qua hơn 70 năm giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt 30 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng XHCN, độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa nước ta từ một xứ thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo định hướng XHCN, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta ra khỏi tình trạng đói nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh CNH, HĐH hội nhập quốc tế, có quan hệ quốc tế ngày càng rộng mở, có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế.

Như vậy, độc lập dân tộc và CNXH, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son. Độc lập dân tộc gắn với CNXH là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới, là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Hệ giá trị độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu, lý tưởng phù hợp xu thế thời đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

______________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2017

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.65.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.46.

 

GS, TS Vũ Văn Hiền

Phó Chủ tịch

Hội đồng Lý luận Trung ương

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền