Trang chủ    Diễn đàn    Động lực đổi mới đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thứ tư, 24 Tháng 7 2019 10:16
6142 Lượt xem

Động lực đổi mới đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

(LLCT) - Động lực là hợp lực những nhân tố thôi thúc từ bên trong, tạo sức đẩy cho sự phát triển. Một vấn đề vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính chiến lược lâu dài trong nghiên cứu lý luận hiện nay ở nước ta là nghiên cứu phát hiện ra các động lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước một cách nhanh và bền vững. Những động lực đó phải tác động, kích hoạt và tạo lực đẩy cho chủ thể của xã hội là con người. Nói cách khác, phải tìm ra và kích hoạt được động lực tổng để tạo lực đẩy, sức bật và sự sáng tạo không ngừng cho chính con người - chủ nhân của phát triển kinh tế, của phát triển đất nước.

1. Có nhiều quan niệm khác nhau về động lực: “Động lực (Motivation), trong kỹ thuật, đó là năng lượng làm cho máy móc chuyển động; hiểu một cách chung nhất đó là cái thúc đẩy làm cho sự vật, hiện tượng phát triển. Động lực phát triển xã hội là những nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển trong một thời kỳ nhất định”(1), hay “Đó là lực đẩy, có sức mạnh vượt qua các lực cản, các rào cản, vượt qua những sức ỳ, những sự trì trệ, tạo ra sự năng động, sinh khí mới của phát triển”(2). “Nghiên cứu về động lực và hệ động lực của đổi mới và phát triển, nhất là tìm đúng các giải pháp, biện pháp để khai thác động lực, phát huy vai trò các động lực, nuôi dưỡng các động lực đó nhằm thúc đẩy mọi hoạt động hướng vào tiến bộ phát triển là một hướng nghiên cứu lý luận của đổi mới, góp phần phát triển lý luận đổi mới của Việt Nam”(3). Có thể hiểu, động lực là hợp lực những nhân tố thôi thúc từ bên trong, tạo sức đẩy cho sự phát triển.  Theo đó, cần chú ý đến các khía cạnh của động lực phát triển như sau:

Một là, động lực là hợp lực các nhân tố để thúc đẩy phát triển. Nó có thể là một hoặc một vài hoặc rất nhiều nhân tố. Song, các nhân tố đó phải hợp lực nhau, cộng lực với nhau, nghĩa là phải tác động đồng thuận cho sự phát triển. Không thể có động lực nếu các nhân tố đó tác động ngược chiều, hoặc triệt tiêu lẫn nhau.

Hai là, cần phân biệt động lực với nguyên nhân và điều kiện của phát triển.  Động lực là lực đẩy cho phát triển, còn nguyên nhân là những nhân tố dẫn đến và bảo đảm cho phát triển. Động lực là nhân tố bên trong, nhân tố nội sinh của quá trình phát triển, còn điều kiện là môi trường bên ngoài của quá trình phát triển.

Ba là, nói đến động lực là nói đến sự tự vận động, sự tự tương tác của những yếu tố năng động, chủ động của chính quá trình phát triển. Cho nên, tìm động lực của sự phát triển chính là phải tìm những nhân tố tự thân vận động, tự thân tạo ra lực. Không thể coi nguyên nhân và điều kiện là thành tố của động lực.

Bốn là, đối với quá trình phát triển xã hội, phát triển đất nước có những động lực riêng tạo ra sự phát triển cho từng lĩnh vực hoạt động; có động lực tổng quát, bao trùm tạo ra sự phát triển cho toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của xã hội. Do đó, phải tìm lực đẩy chung cho toàn xã hội, nghĩa là phải chỉ ra được động lực tổng quát, động lực bao trùm, xem đó là động lực quan trọng nhất, xuyên suốt nhất, chi phối sự phát triển đất nước.

Năm là, bàn đến động lực phát triển xã hội, động lực phát triển đất nước, về thực chất, là bàn đến động lực để con người cống hiến được nhiều nhất, có hiệu quả nhất cho sự phát triển xã hội, phát triển đất nước, bởi vì, con người là chủ thể của xã hội. Động lực tổng quát, bao trùm cho phát triển xã hội, phát triển đất nước phải bao chứa được cả lực đẩy vật chất và lực đẩy tinh thần.      

2. Chặng đường đổi mới và phát triển đất nước hơn 30 năm qua đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đồng thời, nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững”(4).

Những thành tựu và hạn chế dưới cách tiếp cận động lực phát triển cho công cuộc đổi mới đó là:

Công cuộc đổi mới hơn 30 năm qua ở nước ta, có thể được chia làm 3 giai đoạn:

- Giai đoạn mười năm đầu (1986 – 1996): Năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. GDP Việt Nam tăng trưởng liên tục từ năm 1986 đến 1996 với mức bình quân 6,6%/năm. Lạm phát từ 3 con số được đưa về 12,7% năm 1995 và 4,5% năm 1996. Việt Nam từ một nước thiếu ăn đã có dư gạo để xuất khẩu(5). Nhờ đó, “Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng”(6).

- Giai đoạn 10 năm tiếp theo (1997 – 2006). Giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,1%, tức vẫn ở mức cao so với nhiều nước. Trong khi đó, lạm phát được giữ ở mức thấp với mức tăng trưởng CPI bình quân là 4,5%/năm. Năm 1999 và 2001, CPI tăng không đáng kể. Đặc biệt vào năm 2000, nền kinh tế còn ở trong tình trạng giảm phát(7). Nhờ đó, “Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; .... Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; ...”(8).

- Giai đoạn 10 năm gần đây (2007 -2016). Từ năm 2007 đến nay, tăng trưởng GDP giảm với mức tăng trưởng bình quân là 6,2% trong khi mức tăng trưởng bình quân của CPI là 11,8%. Lạm phát mới được kiềm chế trong 2 năm 2012 và 2013(9). Điều này cho thấy: “Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra”(10).

Từ góc độ xem xét và chỉ ra động lực đổi mới, phát triển đất nước, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trên đây, chúng ta chỉ mới chủ yếu sử dụng một loại động lực chính cho sự phát triển đất nước: động lực cởi trói. Nói cách khác, động lực chủ yếu để tạo lực đẩy cho phát triển nền kinh tế Việt Nam trong 30 năm qua chính là động lực cởi trói.

Trước đổi mới, chúng ta áp dụng và xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung được vận hành theo cơ chế mệnh lệnh, hành chính, bao cấp. Điều này đã dẫn đến sự trói buộc toàn bộ nền kinh tế, làm cho đất nước không thể tăng trưởng. Như vậy, do sự trói buộc mà không có lực đẩy, không tạo động lực phát triển cho nền kinh tế. Nói cách khác, chính sự trói buộc nền kinh tế trở thành động lực kìm hãm phát triển đất nước thời kỳ trước đổi mới.

Sau đổi mới, chúng ta đổi mới tư duy, tiến hành xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thay đổi các chính sách cản trở và kìm hãm nền kinh tế phát triển, nhờ đó, nền kinh tế đã có lực đẩy, kích hoạt để tăng trưởng, phát triển. Như vậy, sự tháo gỡ, sự cởi trói những ràng buộc về thể chế kinh tế đã trở thành lực đẩy cho nền kinh tế phát triển. Nói cách khác, sự cởi trói về thể chế kinh tế đã trở thành sức đẩy chính, động lực chính cho sự phát triển kinh tế, phát triển đất nước sau đổi mới.

Song, sự cởi trói về thể chế kinh tế chỉ là nhân tố tác động từ phía ngoài vào nền kinh tế, hay nói cách khác, chỉ là nhân tố ngoại động lực cho nền kinh tế phát triển. Thủ tướng Nguyên Xuân Phúc đã nhận định, hiện nay nền kinh tế Việt Nam có “Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; sức chống chịu của nền kinh tế trước những biến động bên ngoài chưa cao. Mô hình tăng trưởng chuyển đổi còn chậm; các nguồn lực chưa được giải phóng tối đa; việc cơ cấu lại nhiều ngành, lĩnh vực còn chậm, lúng túng; công nghiệp hỗ trợ phát triển chưa tương xứng; chưa tham gia nhiều vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực và hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn nhiều khó khăn. Môi trường đầu tư kinh doanh vẫn còn những bất cập; thủ tục hành chính có lĩnh vực còn rườm rà; kỷ luật kỷ cương nhiều nơi chưa nghiêm; vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”(11).

Như vậy, vấn đề đặt ra là, phải tìm được, kích hoạt được một động lực kết hợp được cả yếu tố ngoại động lực và yếu tố nội động lực cho sự phát triển. Động lực đó phải tác động, kích hoạt và tạo lực đẩy cho chính chủ thể của nền kinh tế, - đó là con người. Nói cách khác, phải tìm ra và kích hoạt được động lực tổng quát để tạo lực đẩy, sức bật và sự sáng tạo không ngừng cho chính con người, chủ nhân của phát triển kinh tế, phát triển đất nước.

3. Để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) và hội nhập quốc tế đang diễn mạnh mẽ, Việt Nam cần phải tìm và kích hoạt được động lực tổng quát để tạo sức bật và tạo đột phá cho sự phát triển. Đảng ta đã nhấn mạnh: “Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững;...”(12).

Theo tinh thần đó, đã có một số nghiên cứu về động lực tổng quát cho sự phát triển đất nước. Hội đồng Lý luận Trung ương nhận định: “Động lực phát triển không phải là một, là duy nhất mà là một hệ thống, bao gồm nhiều động lực, cả vật chất lẫn tinh thần, trong kinh tế, chính trị và văn hóa, trong các giá trị truyền thống đã kết tinh thành di sản, trong các giá trị mới sinh thành trong đổi mới và phát triển”(13).

Theo cách tiếp cận này, hệ thống động lực của đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay được xác định là:

Động lực lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế - vật chất. Lợi ích cá nhân và cộng đồng. Hài hòa các quan hệ lợi ích để đồng thuận trong phát triển. Bảo đảm lợi ích và phát triển nhu cầu.

Động lực lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, giáo dục nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, niềm tin, đức tin, tổ chức hoạt động, phong trào thi đua yêu nước trong bối cảnh mới. Ý thức tự hào, tự tôn và tự trọng dân tộc, phát triển đất nước là lợi ích cốt lõi của quốc gia. Giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là yêu cầu sống còn, là điều kiện của phát triển. Đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, toàn quân để phát huy sức mạnh tổng hợp giữ vững độc lập chủ quyền. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính trong phát triển bền vững và hiện đại hóa.

Động lực dân chủ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển cá nhân và cộng đồng. Thực hành dân chủ trong Đảng, trong xã hội, sức mạnh chống quan liêu, tham nhũng. Dân chủ và tự do sáng tạo của cá nhân, phát triển tài năng và hoàn thiện nhân cách cá nhân. Dân chủ trong kinh tế và trong chính trị, dân chủ trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phát triển nhân cách cá nhân, nhân cách xã hội. Dân chủ trong cải cách thể chế, giải phóng mọi tiềm năng cá nhân và xã hội, trong chính trị đối nội và chính trị đối ngoại...

Động lực đoàn kết, đại đoàn kết: quan hệ giữa dân chủ với đoàn kết để đồng thuận; đoàn kết trong Đảng, trong dân; đoàn kết dân tộc, tôn giáo và đoàn kết quốc tế. Đường lối, chính sách đại đoàn kết theo tư tưởng, nguyên tắc, phương pháp Hồ Chí Minh.

Động lực văn hóa mà trọng tâm, cốt lõi là con người, phát huy nhân tố con người. Con người có trí tuệ, năng lực, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, nhân cách, trung thực, trách nhiệm, nhân ái. Thực hành văn hóa, lối sống văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa, các cộng đồng văn hóa - nuôi dưỡng và phát huy nguồn lực nội sinh của phát triển. Đưa giá trị văn hóa vào trong các quan hệ xã hội của con người, trong hoạt động lãnh đạo và quản lý, xây dựng văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị trong Đảng, văn hóa dân chủ trong xã hội, đạo đức công chức, kỷ luật công vụ trong các cơ quan công quyền, văn hóa giao tiếp, ứng xử trong hệ thống chính trị và trong đời sống xã hội, trong bang giao quốc tế...

Động lực đổi mới tư duy, nhận thức, đổi mới tổ chức, cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi, quản lý kinh tế - xã hội một cách khoa học, đề cao sự minh bạch, trách nhiệm giải trình, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững...

Như vậy, có thể khẳng định: Đổi mới - động lực của mọi động lực.(14)

Đại hội XI của Đảng xác định: “Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập: kết hợp hài hòa các lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy nhân tố con người; vai trò của khoa học - công nghệ;...”(15). Theo đó, có thể khẳng định: Động lực tổng quát cho phát triển Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo trong tiến trình đổi mới đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là: đột phá, sáng tạo, khác biệt và khát vọng phồn thịnh. Tại buổi làm việc với Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo: “Xây dựng Nghị quyết của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019 theo tinh thần đột phá, dám nghĩ, dám làm, đổi mới, sáng tạo, quyết liệt, hành động, phục vụ nhân dân, thể hiện khát vọng vươn lên mạnh mẽ”(16).   

Đột phá là động lực để có nhận thức mới, tư duy mới và tạo lập thể chế, chính sách mới cho nền kinh tế. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong  phiên họp của Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển các đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt (gọi tắt là đặc khu), đã nhấn mạnh: Cần mạnh dạn xây dựng một thể chế đột phá, tạo động lực phát triển cho 3 đặc khu, lan tỏa đến các vùng kinh tế và cả nước, góp phần phát triển kinh tế đất nước nhanh và bền vững(17).

Sáng tạo là động lực để tạo ra sản phẩm mới, để có cách tổ chức thực hiện và cách làm mới. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;...”(18).  Do đó, cần phải “tiếp tục đổi mới và sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý phát triển kinh tế - xã hội”(19). Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã cụ thể hóa tinh thần này trong phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương về phát triển kinh tế - xã hội năm 2019: “Chính phủ và chính quyền các địa phương sẽ cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đoàn kết phấn đấu với quyết tâm và nỗ lực cao hơn nữa, năng động, sáng tạo hơn nữa để hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, góp phần xây dựng đất nước thân yêu của chúng ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ từng mong muốn”(20).

Khác biệt chính là để tạo ra sự đa dạng, phong phú, sinh động và để chúng ta vượt qua và không lặp lại chính mình. Sự khác biệt ở đây không phải dẫn đến bất đồng, không mâu thuẫn, đối nghịch nhau mà từ sự khác biệt để đi đến sự tương đồng, đồng thuận, hợp lực với mục tiêu phát triển đúng quy luật.

Giáo sư Michael Porter (Đại học Harvard Hoa Kỳ) trong hội thảo quốc tế về chủ đề Cạnh tranh toàn cầu và lợi thế Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh (tháng 12-2017) nhận định: “Các lợi thế cạnh tranh của 10 năm trước đây đang dần cạn kiệt, Việt Nam cần tìm ra động lực phát triển mới đó là năng suất lao động, công nghệ mới và lợi thế về địa lý”. Trên cơ sở đó, ông đưa ra lời khuyên: “Tốt hơn hết là công ty cũng như nhà nước cần tìm ra thế mạnh độc đáo của mình, tìm ra điều khác biệt của mình so với những đối thủ cạnh tranh sau đó làm ra các sản phẩm phù hợp chứ không phải là sản phẩm tốt nhất thế giới”(21).

Khát vọng phồn thịnh là động lực tạo nhu cầu và thể hiện trách nhiệm của chủ thể đất nước, của dân tộc trong quá trình phát triển đi lên trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Đại hội XII của Đảng đã thể hiện rõ khát vọng này “quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”(22).

___________________

(1) Nguyễn Văn Quyết: Một số động lực chủ yếu cho sự phát triển đất nước hiện nay, http://lyluanchinhtri.vn.

(2), (3), (13), (14) Đinh Thế Huynh và các cộng sự (Đồng chủ biên): 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.405, 406, 406, 407-409.

(4), (6), (8), (10), (12), (15), (18), (19), (22) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.65, 65-66, 66, 67, 217, 76, 158, 269, 219-220.

(5), (7), (9) Mỹ Chi: Từ cuộc đổi mới 1986 đến tái cơ cấu kinh tế 2013, chúng ta có gì?  Báo điện tử Trí thức trẻ, http://cafef.vn.

(11) Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Nỗ lực đổi mới, sáng tạo, quyết liệt hành động, phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện kế hoạch năm 2019, tạo nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững, http://nhandan.com.vn.

(16) Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Xây dựng Nghị quyết thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2019 theo tinh thần đột phá, dám nghĩ, dám làm, đổi mới, sáng tạo, https://viettimes.vn.

(17) Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Mạnh dạn xây dựng một thể chế đột phá, tạo động lực phát triển, http://baochinhphu.vn.

(20) Nguyễn Phú Trọng: Nỗ lực, năng động, sáng tạo hơn nữa để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, http://nhandan.com.vn.

(21) Việt Nam cần tìm ra động lực phát triển mới, http://pace.edu.vn.

PGS, TS Ngô Đình Xây

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền