Trang chủ    Diễn đàn    Việt Nam bảo đảm về pháp lí quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Thứ sáu, 09 Tháng 5 2014 16:12
2727 Lượt xem

Việt Nam bảo đảm về pháp lí quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

(LLCT) - Dù đang trong quá trình chuyển đổi hệ thống pháp luật còn những bất cập; hàng loạt vấn đề đang đặt ra cần được giải quyết, song chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã khá phù hợp với quy định và mục tiêu của các công ước nhân quyền mà Việt Nam là thành viên cũng như thông lệ quốc tế.

1. Niềm tin là một nhu cầu cơ bản của con người. Trong các niềm tin, niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo xuất hiện sớm nhất - kể từ khi con người ý thức được sự tồn tại của mình và có sức sống mãnh liệt nhất, gắn liền với quá trình con người đi tìm lời giải cho hàng loạt vấn đề của cuộc sống.

Những nhu cầu này được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia thời kỳ cách mạng tư sản(1). Trên phạm vi toàn thế giới, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận, bảo vệ ngay từ khi Liên hợp quốc ra đời (1945) và được khẳng định trong hầu hết các văn kiện nhân quyền.

Hiến chương Liên hợp quốc khẳng định sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu và “khuyến khích sự tôn trọng các quyền con người mà không có sự phân biệt về chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Tuyên ngôn nhân quyền thế giới nhấn mạnh mục tiêu tạo lập một thế giới trong đó con người được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng như là khát vọng cao cả của những người dân bình thường.

Để tạo cơ sở pháp lý cho việc tôn trọng và thực hiện các quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua nhiều điều ước quốc tế với nội dung này.

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966) ghi nhận: “1) Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín, dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và giảng đạo. 2) Không một ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng” (Điều 18).

Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được đề cập gắn liền với quyền “tự do tư tưởng”, “tự do nhận thức”, “không phân biệt đối xử”, kỳ thị tôn giáo và được thể hiện trong tất cả các văn kiện nhân quyền của Liên hợp quốc. 

Bên cạnh các văn kiện có tính ràng buộc pháp lý nói trên, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng khác nhằm khuyến nghị các quốc gia, các khu vực và cộng đồng quốc tế quan tâm bảo vệ quyền này. Các văn kiện này tạo ra cơ sở chính trị, đạo đức trong việc bảo vệ quyền con người.

Đại hội đồng Liên hợp quốc còn ban hành nhiều văn kiện về những vấn đề có liên quan, như Tuyên bố của Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức không khoan dung và phân biệt đối xử dựa trên cơ sở tôn giáo hay tín ngưỡng (1981).

Thực tế cho thấy, tự do tôn giáo luôn có khuynh hướng dẫn đến tôn giáo cực đoan và tiềm ẩn những nguy cơ xung đột. Vì thế, việc quản lý hoạt động tôn giáo là cần thiết. Bên cạnh đó, mọi sáng kiến cũng cần được khuyến khích nhằm hiện thực hóa ngày càng đầy đủ hơn quyền này. Trong các biện pháp, sáng kiến ấy, khoan dung tôn giáo trở thành một yêu cầu quan trọng trong việc thực hành tự do tôn giáo.

Tuyên bố về các nguyên tắc về sự khoan dung, được UNESCO thông qua tại khóa họp lần thứ 28 (năm 1995), nhấn mạnh hơn nội hàm của khái niệm khoan dung(2). Ở một khía cạnh nhất định, khoan dung tôn giáo cũng là thể hiện tự do tôn giáo.

Theo các văn kiện quốc tế về nhân quyền, tự do tôn giáo là một hợp phần của “tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo”. Có thể hiểu, tự do tôn giáo như là quyền chấp nhận hay không chấp nhận bất cứ quy tắc hay thái độ tôn giáo nào đó. Tự do tôn giáo được bảo vệ theo cách giống như bảo vệ tự do tư tưởng và niềm tin nói chung. Nó gồm quyền tự do của cá nhân trong suy tưởng, nhận thức và cam kết đi theo một tín ngưỡng, tôn giáo; được biểu lộ ra một mình hay cùng với những người khác. Tự do lựa chọn hay thay đổi một tôn giáo cũng như tự do tư tưởng và niềm tin được bảo vệ một cách vô điều kiện. Không ai có thể bị thúc ép phải tiết lộ tư tưởng của mình và bị ép buộc phải theo một tôn giáo nào đó.

Tuyên ngôn nhân quyền thế giới, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị đều xác định tự do tôn giáo là quyền “của mọi người” - có nghĩa là nhằm bảo vệ người lớn cũng như trẻ em, người trong nước cũng như người nước ngoài - và quyền này không thể bị xâm phạm, bất kể trong thời bình hay thời chiến. Các quyền về tôn giáo không chỉ cho phép cá nhân được hưởng những tự do đó, mà có thể và thường được thể hiện trong cộng đồng; vì vậy thường diễn ra ở những nơi công cộng. Điều này cũng hàm ý cho phép quyền tự do nhóm họp của các tín đồ tôn giáo. Các cơ quan riêng biệt dựa trên cơ sở tôn giáo cũng được hưởng đầy đủ sự bảo vệ theo quyền tự do tôn giáo. Các cơ quan này có thể là ngôi nhà dùng làm địa điểm thờ cúng hoặc cơ sở đào tạo của tôn giáo; thậm chí là các tổ chức phi chính phủ (NGOs). Quyền này bao gồm,tự do thành lập và duy trì các tổ chức từ thiện hay tổ chức nhân đạo thích hợp; tự do viết, xuất bản và phổ biến các tài liệu có liên quan trong các lĩnh vực này; tự do giảng đạo ở những địa điểm thích hợp.

Tuyên bố xóa bỏ phân biệt đối xử và không khoan dung trên cơ sở tôn giáo có nghĩa là mọi sự phân biệt, loại trừ, ngăn cấm, hay thiên vị về tôn giáo, tín ngưỡng đều phải loại bỏ. Việc xóa bỏ phân biệt đối xử và không khoan dung về tôn giáo không chỉ được đặt ra trong đời sống công cộng mà còn được áp dụng vào đời sống riêng tư của mỗi cá nhân, mà chính từ đó các tín ngưỡng, tôn giáo cũng như các nhu cầu khác được hình thành.

Tự do tôn giáo là mọi người có quyền biểu lộ niềm tin tôn giáo, bao gồm phát ngôn, giảng dạy, hành xử, thờ cúng hoặc tiến hành các lễ nghi do tôn giáo quy định, đồng thời có nghĩa là có thể tránh, từ chối những hành động trái với quy định trong tín ngưỡng của cá nhân.

Như vậy, tự do tôn giáo được xác định với nội hàm khá rộng, thể hiện khát vọng mãnh liệt của cộng đồng quốc tế về tự do tôn giáo nói riêng, về niềm tin của con người nói chung.

Tuy nhiên, cũng như một số lĩnh vực khác, tự do tôn giáo là một vấn đề phức tạp, luôn tiềm ẩn những xung đột trong thực hành. Vì vậy, trong khi thực hiện quyền này cũng phải chịu những giới hạn nhất định. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị nêu rõ: “Quyền tự do thực hành tôn giáo hoặc tín ngưỡng theo quy định này có thể bị giới hạn nhưng chỉ khi sự giới hạn đó là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền và tự do cơ bản của người khác”.

Có thể hiểu, việc lựa chọn niềm tin (bao gồm niềm tin tư tưởng, chính trị, khoa học, văn hóa hoặc tín ngưỡng) là quyền tự do của mỗi cá nhân, nhưng việc họ thể hiện niềm tin ấy ra ngoài như thế nào, lại có thể đe dọa đến quyền lợi hoặc mối quan tâm của người khác. Vì thế, việc quy định quyền thể hiện tín ngưỡng, tôn giáo là cần thiết. Tuy nhiên, sự hạn chế này cần phải và dựa trên cơ sở luật pháp và chỉ áp dụng khi cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự xã hội, sức khỏe hay đạo đức cho cộng đồng hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. Chẳng hạn, trong trường hợp tế người, tế thần, cắt bộ phận sinh dục trẻ em gái, các hoạt động lật đổ và các hành vi khác đe dọa đối với sức khỏe con người; giới hạn tự do của cha mẹ khi thực hành tôn giáo mà có thể làm tổn hại tới sức khỏe tinh thần, thể chất của trẻ(3).

2. Những nội dung về tự do tôn giáo trong các văn kiện nhân quyền quốc tế là cơ sở pháp lý, nền tảng cho việc thực hiện tôn trọng, bảo vệ trên thực tế quyền tự do tôn giáo ở các khu vực và ở mỗi quốc gia. Đó còn là những chuẩn mực cơ bản và hệ tham chiếu cho mọi quốc gia và quốc tế trong việc theo dõi, bảo vệ và thúc đẩy quyền này.

Dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc, các văn kiện nhân quyền khu vực đã đề cập ở những mức độ khác nhau về quyền tự do tôn giáo(4). Các cơ chế nhân quyền khu vực được thành lập với việc thông qua các văn kiện nhân quyền chung, trong đó có quyền tự do tôn giáo vừa là sự khẳng định mạnh mẽ tầm quan trọng của quyền con người nói chung, quyền tự do tôn giáo nói riêng, vừa là sự bổ sung những cách thức và sáng kiến phù hợp với đặc thù từng khu vực, nhằm thực hiện đầy đủ các nội dung cơ bản của quyền này.

Theo quy định của luật nhân quyền quốc tế, sau khi ký kết hoặc gia nhập một điều ước nhân quyền, quốc gia thành viên phải thực hiện nhiều nghĩa vụ. Trong đó, nghĩa vụ nội luật hóa nội dung điều ước có vai trò rất quan trọng, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc hiện thực hóa mục tiêu mà điều ước hướng tới.

Nội luật hóa điều ước thường theo hai cách. Cách thứ nhất là quốc gia ban hành một đạo luật mới, cách thứ hai là sửa đổi toàn bộ luật pháp trong nước cho tương thích với nội dung và mục tiêu của điều ước. Bên cạnh đó, các quốc gia phải thực hiện hàng loạt biện pháp lập pháp, hành chính và tư pháp nhằm hiện thực hóa nội dung điều ước; đồng thời chịu sự giám sát của các cơ quan được thành lập theo điều ước.

Trong nội luật hóa điều ước nhân quyền quốc tế, việc giải thích khái niệm cơ bản và nội dung điều ước là hết sức cần thiết, vì nó tạo ra nhận thức chung giữa các bên có liên quan. Tôn giáo và tự do tôn giáo là lĩnh vực phong phú và phức tạp. Vì thế, tuy đã đạt được những nhận thức chung song vẫn đang tồn tại những cách hiểu khác nhau, từ khái niệm cho tới việc tổ chức thực hiện.

Cho tới nay chưa có một định nghĩa chung nào về tôn giáo, nhưng có một số yếu tố chung được xác nhận(5).

Từ tính phức tạp của vấn đề tôn giáo, nên việc nhận thức và thực hiện tự do tôn giáo ở mỗi quốc gia cũng không giống nhau. Trong khi Hoa Kỳ đặt tự do tôn giáo thành nhân quyền bậc một, thì ở nhiều nước Bắc Âu, tự do ngôn luận được đề cao hơn tự do tôn giáo. Việc lợi dụng vấn đề tôn giáo vào những mục tiêu nào đó càng khiến vấn đề tôn giáo và tự do tôn giáo trở lên phức tạp.

Jean Jacques Rousseau cho rằng: “Mỗi tôn giáo gắn liền với pháp luật của mỗi nước nhất định”(6). Bàn luận về tôn giáo và mối quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo, Montesquieu đề cao vai trò của pháp luật về tôn giáo: “pháp luật nên đòi hỏi các tôn giáo chẳng những không quấy rối nhà nước mà còn không quấy rối lẫn nhau. Một công dân tôn trọng pháp luật chẳng những không quấy rối nhà nước mà còn không quấy rối các công dân khác”(7)

Như vậy, tự do tôn giáo, trong đó có mối quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo, luôn là vấn đề lớn.

3. Nhà nước Việt Nam đã sớm tham gia hệ thống điều ước, công ước nhân quyền và hiện là thành viên của 11 điều ước, công ước nhân quyền quốc tế. Với tư cách là thành viên các công ước, Nhà nước Việt Nam ngày càng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình; thể hiện ở việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền con người như đã quy định.

Việt Nam luôn coi trọng hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ kinh nghiệm trên lĩnh vực nhân quyền và phấn đấu vì hòa bình và tiến bộ xã hội.

Đối với nghĩa vụ nội luật hóa các điều ước nhân quyền quốc tế, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện đồng thời cả hai biện pháp (sửa đổi hệ thống pháp luật và ban hành đạo luật mới) nhằm bảo đảm sự tương thích của pháp luật Việt Nam với mục đích và yêu cầu của các điều ước. Bên cạnh đó, Việt Nam luôn chủ động thực hiện trách nhiệm đối với nhiều điều ước nhân quyền khác mà Việt Nam chưa là thành viên.

Để khắc phục tình trạng xung đột pháp luật có thể xảy ra giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (2005) của Việt Nam  (Điều 6) quy định: “1. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế. 2. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về cùng một vấn đề”. Đây là cơ sở quan trọng cho việc nội luật hóa các công ước nhân quyền vào pháp luật Việt Nam, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Việc chuyển hóa điều ước nhân quyền vào pháp luật ở Việt Nam được thực hiện qua nhiều bước. Trước hết, các quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận trong Hiến pháp hiện hành. Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) ghi nhận “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước (Điều 70)”. Như vậy, ở đạo luật gốc này, người theo tín ngưỡng, tôn giáo và người không theo tôn giáo đều được tôn trọng, bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật và trong các quan hệ pháp luật.  

Trên cơ sở nguyên tắc hiến định, toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia thể hiện các quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật Giáo dục…

Năm 2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, quy định hàng loạt quyền của cá nhân, tổ chức tôn giáo; xác định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo hộ cá nhân, tổ chức tôn giáo và hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng; bảo đảm nguyên tắc tôn trọng những công việc thuộc nội bộ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận; tôn trọng cơ sở thờ tự, tài sản và quan hệ quốc tế của các tôn giáo…Pháp lệnh cũng xác định giới hạn khi thực hành tôn giáo, tín ngưỡng: “Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bị đình chỉ nếu thuộc một trong các trường hợp sau: 1/ Xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng hoặc môi trường; 2/ Tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc; 3/ Xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; 4/ Có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác” (Điều 15).

Pháp lệnh còn quy định vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc thực hiện tự do tôn giáo.

Đây là nét đặc thù tích cực của Việt Nam so với các quốc gia khác về phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nhân quyền nói chung, tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng.

Pháp lệnh cũng xác định, “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có sự khác nhau với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế”. Điều này cho thấy thái độ, trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Để đảm bảo thực hiện tốt Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01-3-2005 Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.

Nghị định của Chính phủ quy định cụ thể trình tự, thủ tục đăng ký và công nhận tổ chức tôn giáo; về cơ sở thờ tự và hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng; về phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển hoạt động của chức sắc tôn giáo; về mở trường đào tạo người chuyên hoạt động tôn giáo; về hội nghị, hội thảo và quan hệ quốc tế có liên quan tôn giáo… Điều đáng chú ý là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo được quy định trong Nghị định thể hiện nỗ lực phân cấp, phân quyền và cải cách hành chính (như việc xác định rõ thời hạn giải quyết của các cấp chính quyền về nhu cầu tôn giáo…), nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức và cá nhân trong hoạt động tôn giáo ở Việt Nam.

Ngày 4-2-2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 01/2005/CT-TTg về một số công tác đối với đạo Tin lành. Tinh thần cơ bản của Chỉ thị là tiếp tục xem xét công nhận và tạo điều kiện hoạt động của các chi hội thuộc Tổng hội Tin lành Việt Nam (miền Nam); đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của người dân ở những nơi chưa đủ điều kiện để công nhận chi hội; kiên quyết xử lý theo pháp luật những người hoạt động truyền đạo trái phép…Đây là bước phát triển mới, thể hiện nguyên tắc pháp quyền, song cũng rất linh hoạt của Nhà nước Việt Nam trong giải quyết vấn đề tự do tôn giáo.

Nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tự do tôn giáo, ngày 8-11-2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 92/2012/NĐ-CP thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ-CP. Nghị định 92 có nhiều quy định mới, rõ ràng, minh bạch, đề cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo theo hướng cải cách hành chính trên lĩnh vực này; đặc biệt có quy định về quyền tự do thực hiện tôn giáo, tín ngưỡng của người nước ngoài ở Việt Nam.

Đất nước đang trong quá trình chuyển đổi hệ thống pháp luật còn những bất cập; hàng loạt vấn đề đang đặt ra cần được giải quyết, song chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã khá phù hợp với quy định và mục tiêu của các công ước nhân quyền mà Việt Nam là thành viên cũng như thông lệ quốc tế.

_______________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2013

(1) Quy định về tự do tôn giáo được ghi nhận sớm nhất là Dự luật Virginia về các quyền(1776), sửa đổi lần thứ nhất.

(2) Đó là “tôn trọng, chấp thuận và đánh giá cao sự đa dạng, phong phú của các nền văn hóa của thế giới của chúng ta, những hình thức biểu đạt ý kiến của chúng ta và lối sống của con người. Khoan dung được thúc đẩy bởi sự hiểu biết, thẳng thắn, sự giao tiếp và quyền tự do tư tưởng, nhận thức và tín ngưỡng. Khoan dung là sự hài hòa trong sự khác biệt. Nó không chỉ là một nghĩa vụ đạo đức mà còn là một yêu cầu chính trị, pháp lý. Khoan dung, nhân đức có thể tạo ra hòa bình, có thể góp phần thay thế văn hóa của chiến tranh bằng một nền văn hóa của hòa bình…(Điều 1)”.

(3) Chẳng hạn, việc thực hành đó có thể dẫn tới từ chối khám chữa bệnh hoặc từ chốicho trẻ em đến trường. Giáo phái Những tín đồ Giêhôva (một tổ chức tôn giáo tin rằng sắp đến ngày tận thế và mọi người sẽ sa xuống địa ngục, trừ thành viên của tôn giáo này) từ chối việc truyền máu và việc này có thể sẽ dẫn đến cái chết của trẻ em. Tín ngưỡng của giáo phái này không thích hợp với tiêu chuẩn y tế hiện hành.

(4) Đó là Công ước nhân quyền châu Âu, 1950 (Điều 9); Công ước nhân quyền châu Mỹ, 1969 (Điều 12, 13, 16f, 23); Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc, 1981 (Điều 2, 8, 12); Hiến chương các nước Ả Rập về quyền con người, 1994 (Điều 26, 27); Hiến chương châu Á về quyền con người (do các tổ chức phi chính phủ châu Á thông qua tại Hồng Công năm 1998). Hiến chương nhân quyền các dân tộc châu Á (do Hiệp hội các Nghị viện châu Á vì hòa bình - AAPP thông qua năm 2005, tại Điều 11)... 

(5) Nhận xét chung số 22 về Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị nêu rõ: “Điều 18 bảo vệ các tín ngưỡng hữu thần, không hữu thần, hay vô thần, cũng như bảo vệ quyền không theo một tôn giáo hay tín ngưỡng nào cả”, “Thuật ngữ tôn giáo, tín ngưỡng được diễn giải theo nghĩa rất rộng. Điều 18 không bị giới hạn trong ngữ nghĩa về các tôn giáo truyền thống hay về các tôn giáo và tín ngưỡng với những đặc thù thể chế hay hành xử tương tự như của tôn giáo truyền thống. Ủy ban, vì vậy, quan tâm đến bất cứ xu hướng phân biệt đối xử nào nhằm chống lại tôn giáo hay tín ngưỡng vì bất cứ lý do gì, kể cả yếu tố thực tế là chúng mới ra đời, hay chỉ đại diện cho một tôn giáo thiểu số có thể gây ra sự thù nghịch của cộng đồng tôn giáo áp đảo”.

(6) Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2006, tr.232 

(7) Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996, tr.185.

 

TS Đặng Dũng Chí

Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền