Trang chủ    Diễn đàn    Báo chí và trách nhiệm ngăn ngừa, hạn chế tác hại của tin đồn
Thứ sáu, 09 Tháng 5 2014 16:15
3818 Lượt xem

Báo chí và trách nhiệm ngăn ngừa, hạn chế tác hại của tin đồn

(LLCT) - Tin đồn là một hiện tượng thường gặp trong đời sống xã hội ở bất kỳ quốc gia nào, bất kỳ giai đoạn nào. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, mặc dù công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông phát triển mạnh mẽ nhưng tin đồn vẫn tồn tại, phát triển và có tác động nhất định đến đời sống, nhận thức xã hội.

 

1. Tác động và hệ lụy của tin đồn

“Tin đồn là sự khẳng định chung của một nhóm người về một vấn đề nào đó của xã hội, có thể có thực hoặc không có thực, nhưng không có dữ liệu để kiểm chứng. Tin đồn là phương thức giao tiếp bằng ngôn ngữ diễn ra hàng ngày trong đời sống, trong đó các thông tin được truyền từ người này sang người khác. Do mức độ thu nhận thông tin, do cá tính và cách nhìn nhận vấn đề của các cá nhân là khác nhau dẫn đến các đối tượng tiếp nhận nội dung thông tin theo cách hiểu của mình, và do vậy thông tin thường bị biến dạng, méo mó”(1).

Trên thực tế, nhiều người còn có sự nhầm lẫn giữa tin đồn và dư luận xã hội, thậm chí dùng tin đồn như chức năng của dư luận xã hội để phán xét, đánh giá, hoặc coi đó là cơ sở đương nhiên tin cậy cho những suy luận tiếp theo. Cách hiểu đó hết sức nguy hiểm. Thực ra, “giữa tin đồn và dư luận xã hội có những điểm khác biệt cơ bản sau đây: 1) Nguồn thông tin: nguồn thông tin của tin đồn bao giờ cũng xuất phát từ người khác (tôi nghe người này nói, người kia nói); nguồn thông tin của dư luận xã hội lại xuất phát từ chính là bản thân người phát ngôn (theo ý kiến của tôi thì...); 2) Tin đồn loang càng xa thì càng có nhiều biến thái, do nó không ngừng được thêm thắt. Lúc ban đầu, dư luận xã hội thường rất phân tán, nhưng sau đó, thông qua sự trao đổi, tranh luận, tính thống nhất của dư luận xã hội thường tăng lên; 3) Tin đồn thường có tính “thất thiệt” (mặc dù có những tin đồn về cơ bản là sự thật), trong khi đó, dư luận xã hội phản ánh trung thực suy nghĩ, tình cảm, thái độ của chủ thể. Tuy nhiên, giữa dư luận xã hội và tin đồn không có sự ngăn cách không vượt qua được. Tin đồn có thể làm nảy sinh dư luận xã hội khi trên cơ sở tin đồn người ta đưa ra những phán xét đánh giá bày tỏ thái độ của mình. Tin đồn thường xuất hiện khi người ta thiếu (hoặc thừa) thông tin”(2).

Thực ra, tin đồn không hoàn toàn là xấu, hoặc luôn luôn là thất thiệt. Sự ra đời, phát triển tin đồn cũng dựa trên những quy luật xã hội nhất định, có tác dụng xã hội nhất định và cũng có thể bao hàm những ý nghĩa xã hội cụ thể nào đó. Tin đồn về bản chất là hiện tượng bình thường, thậm chí còn góp phần làm cho cuộc sống thêm sinh động và đa sắc. Đó là sự bắt đầu các phỏng đoán, các ý tưởng mới và thể hiện tâm lý, trình độ nhận thức của các bộ phận, tầng lớp xã hội, cũng có thể còn là thước đo uy tín và hiệu quả quản lý của một cá nhân, tổ chức và chính phủ. Không loại trừ việc ở một số quốc gia, có những cơ quan, tổ chức sử dụng tin đồn để thử hiệu ứng dư luận trước khi có những quyết định chính thức. Chưa kể tin đồn còn có chức năng giải tỏa tâm lý, giảm bớt những ngột ngạt, căng thẳng trong cuộc sống hiện đại…

Tuy nhiên, loại tin đồn đặc thù trong lĩnh vực kinh tế lại có ý nghĩa khác, và thường chúng mang nặng tính định hướng có mục tiêu hoặc đầu cơ cao. Khi tin đồn được mặc nhiên thừa nhận và trở thành nhận thức của đông đảo dân chúng sẽ tạo thành sức mạnh khôn lường. Chúng có thể làm lợi cho ai đó thu bộn tiền, cũng có khi làm lao đao nhiều số phận cá nhân và cả doanh nghiệp, thậm chí có thể làm giảm sút căn bản hiệu lực, hiệu quả của một chính sách quản lý nhà nước và làm tổn thất uy tín, cũng như tiền bạc của quốc gia.

Xã hội hiện đại đã và đang phải đối mặt và sống chung với làn sóng các tin đồn và cơn sốt giá đủ loại: về chứng khoán, bất động sản, vàng, ngoại tệ,…

2. Vai trò của báo chí trong ngăn ngừa tác hại của tin đồn

Cùng với công cuộc đổi mới đất nước, báo chí nước ta đã có sự phát triển vượt bậc. Sự nở rộ các loại hình báo chí đã khiến đời sống báo chí trở nên rất đa dạng và phong phú. Chúng ta đã có hệ thống thông tin truyền thông đại chúng khá hùng hậu với trên 700 tờ báo, tạp chí, bên cạnh đó là hệ thống truyền thanh, truyền hình trên khắp cả nước. Nhiều cơ quan báo chí có uy tín cao trong xã hội. Nhiều tác phẩm báo chí biểu dương người tốt, việc tốt, có tác động lan tỏa trong xã hội; đấu tranh, phê phán cái xấu, cái ác, có giá trị định hướng cao.

Tuy nhiên, nhìn một cách khách quan, trận chiến thông tin vẫn còn đầy bất cập và bất trắc, tin đồn thất thiệt với dụng ý xấu vẫn thản nhiên tồn tại, tác oai, tác quái trong đời sống cộng đồng. Rõ ràng đang có những lỗ hổng và bất cập trong quản lý nhà nước, dung dưỡng và nương tay với các tin đồn thất thiệt đó… Đặc biệt, vai trò của báo chí trong cuộc chiến chống tin đồn thất thiệt chưa được phát huy mạnh mẽ. Thậm chí, không ít trường hợp, do sơ suất hay cố ý, một số cơ quan báo chí, đặc biệt là báo mạng điện tử đã xử lý thông tin không tốt, chưa làm tròn trách nhiệm định hướng dư luận xã hội, mà còn tiếp tay phát tán tin đồn, đưa tin đồn loang xa hơn, “chính danh hóa” những thông tin không rõ nguồn gốc. Những sai sót đó khiến thiệt hại do tin đồn gây ra còn lớn hơn nhiều lần, đồng thời hạ thấp vai trò và uy tín của báo chí đối với công chúng và xã hội, làm tổn thương lòng tự trọng nghề nghiệp của những người làm báo chân chính. Tình trạng đó cần được đánh giá đúng mức, có phương thức xử lý nghiêm túc và hữu hiệu, góp phần ổn định tâm lý xã hội, đồng thời nâng cao vai trò định hướng dư luận xã hội của báo chí, củng cố niềm tin của công chúng.

Cơ chế quản lý báo chí hiện nay đang khiến không ít cơ quan báo chí lúng túng trong định hướng phát triển. Vấn đề tự thu, tự chi trong cơ chế thị trường đã gây sức ép tài chính nặng nề đối với các cơ quan báo chí. Các khoản thuế còn khá cao, chính sách ưu đãi báo chí chưa thật thỏa đáng, đời sống người làm báo có nhiều khó khăn. Đây là một thách thức khiến thông tin trên báo nhiều khi chưa thật được chắt lọc kỹ lưỡng. Tuy nhiên, nguyên nhân cơ bản nhất là do một số cơ quan báo chí và cá nhân nhà báo chưa nhận thức thật đầy đủ về chức năng, vai trò và sứ mệnh xã hội của báo chí.

3. Các giải pháp định hướng dư luận xã hội, ngăn ngừa có hiệu quả những tin đồn thất thiệt

Một là, tăng cường cơ chế cung cấp thông tin chính thức, chính xác, toàn diện và kịp thời cho báo chí. Cần thể chế hoá các phát ngôn và cung cấp thông tin chính thức có chất lượng và trách nhiệm pháp lý cao (định kỳ và không định kỳ) của các cơ quan và đại diện nhà nước cũng như của các ngành và doanh nghiệp đang có sự độc quyền kinh doanh, như xăng, dầu, điện… Không được lạm dụng “yêu cầu bảo mật” để chối bỏ trách nhiệm cung cấp thông tin cho báo chí, bởi bất cứ một xã hội văn minh nào, việc công chức, cán bộ đối diện với áp lực giám sát của dư luận xã hội vẫn luôn là điều cần thiết. Thực tế, có nơi, có lúc, cơ chế “tài liệu đóng dấu mật” đã bị lạm dụng, sử dụng tràn lan, sai quy định, cản trở việc tiếp cận thông tin và định hướng dư luận xã hội của báo chí.

Hai là, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí nhằm triệt tiêu các tin đồn dụng ý xấu. Thực tế, có một vấn đề đang tồn tại trong hoạt động truyền thông nước ta là tính đơn nhất thể hiện cá tính sáng tạo của tờ báo luôn được xem là mục tiêu để tờ báo theo đuổi đến cùng. Nếu một tờ báo khác cũng tiếp tục khơi vào dòng thông tin ấy, dễ bị cho là “theo sau”, “bắt chước”, lại dễ có cảm giác mình “ủng hộ không công” cho “đối thủ cạnh tranh” trong hoạt động nghề nghiệp. Kiểu tư duy này thực sự là một hạn chế của báo chí nước ta trong việc khuếch tán những thông điệp vốn đã có hiệu ứng xã hội tốt. Trong khi, nếu có sự trợ lực của các kênh truyền tải khác nhau, thông điệp có thể được phát tán rộng hơn, ảnh hưởng sâu hơn, thì các báo lại có xu hướng “tránh đường” các báo khác đã đi, tránh chạy theo những thông tin báo khác đã lựa chọn làm trọng tâm trước đó.

Sự thiếu thống nhất, phối hợp trong định hướng dư luận xã hội  ở các cơ quan báo chí thể hiện trên những xu thế sau:

Thông tin cấp thiết nhưng chỉ có một cơ quan báo chí đưa. Các cơ quan khác không vào cuộc, coi đó là “chuyện của người khác”, né tránh, đưa mờ nhạt, hoặc hạ thấp tầm mức cần có.

Thông tin trên các báo đưa trái chiều nhau, xuất phát từ những nguyên tắc không giống nhau, thậm chí có lúc còn thiếu công tâm, cố gắng tìm những nét rất nhỏ để “khái quát” thành cái lớn, cái bao trùm, ngụy tạo quan điểm riêng, làm phân tâm dư luận.

Có biểu hiện “tiền hậu bất nhất” ngay trong cách đưa tin của một vài cơ quan báo chí. Cùng một hiện tượng, nhưng lúc khen, lúc chê, khiến dư luận hoang mang. Nhận thức là một quá trình, cơ quan báo chí có thể điều chỉnh cách đánh giá, nhìn nhận cho sát hơn, đúng hơn với thực tế. Song, quan trọng là phải cho công chúng thấy được sự cầu thị, thấy được “quá trình nhận thức” thực sự đó.

Ngoài ba xu thế trên, cũng cần tránh một xu thế nữa làa dua, “thừa thắng xông lên”, quá “bênh” nhau, thiếu lý trí xét đoán, dẫn đến “chê hội đồng”, “khen hội đồng”, chuyện bé xé ra to, nguỵ tạo những điển hình không thuyết phục, thậm chí không có trong thực tế, đẩy nhân vật vào thế khó xử. Chính vì cách làm này mà nhiều người “sợ báo chí”, sợ nhưng không phục, và càng sợ thì càng né tránh, không coi trọng thông tin trên báo chí nữa.

Ba là, nêu cao trách nhiệm của nhà báo và cơ quan báo chí trong ngăn chặn và triệt tiêu tác hại của tin đồn. Những thông tin giật gân, thiếu trách nhiệm được đề cập thường có mấy cấp độ sau: Thứ nhất, thông tin bịa đặt hoàn toàn, với dụng ý và mục đích cá nhân cụ thể.Thứ hai, thông tin chưa đến mức nghiêm trọng, nhưng bị đẩy lên cho thêm phần ly kỳ, tỉa tót kiểu “vẽ rắn thêm chân”, đáp ứng nhu cầu suy diễn lệch lạc. Thứ ba, thông tin là có thật, nhưng bị nhìn nhận, đánh giá, phán xét phiến diện, chỉ nhăm nhăm khai thác mặt trái, mặt xấu… Xu hướng thông tin giật gân, kích động thường không chỉ là thiên hướng, nhãn quan cá nhân một nhà báo, mà nó là “định hướng” của một vài cơ quan báo chí muốn giành giật công chúng bằng mọi giá, bất chấp những hậu quả và hệ luỵ có thể xảy ra. Thậm chí có tờ báo đưa tới hàng trăm “tin xấu”, trong khi chỉ có vài tin bài “có xu hướng tích cực”.

Rõ ràng, với những sản phẩm báo chí như vậy, sẽ tác động xấu đến nhận thức và niềm tin của công chúng vào chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Tin đồn là một hiện tượng xã hội, không thể loại bỏ hoàn toàn ra khỏi đời sống xã hội, nhưng báo chí và các phương tiện truyền thông phải có trách nhiệm phân tích, định hướng kịp thời, góp phần ngăn ngừa những tác hại xấu, những tác động tiêu cực của tin đồn với đời sống xã hội.

Suy cho cùng, khi thông tin chính thức càng minh bạch, rõ ràng, đầy đủ và kịp thời, khi báo chí và các phương tiện truyền thông càng hấp dẫn và làm tốt chức năng của mình, thì những tin đồn thất thiệt, có dụng ý xấu càng khó có đất tồn tại. Chỉ khi công chúng tin vào báo chí, tìm đọc thông tin trên báo chí để tự định hướng và miễn dịch với thông tin ngoài luồng, không nguồn gốc, thì khi ấy, tin đồn dù có tai ác đến đâu cũng không thể thâm nhập và gây hại cho đời sống cộng đồng.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2013

(1) PGS, TS Nguyễn Quý Thanh: Tin đồn và cơ chế hình thành tin đồn, Bài giảng Khoa Xã hội học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

(2) TS Phạm Chiến Khu: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác nghiên cứu dư luận xã hội”, Tạp chí Tuyên giáo tháng 5-2010.

 

TS Đỗ Chí Nghĩa

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền