Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang toàn dân và chiến tranh nhân dân
Thứ tư, 16 Tháng 12 2015 16:26
11781 Lượt xem

Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang toàn dân và chiến tranh nhân dân

(LLCT) - Với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh sớm chủ trương tiến hành cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân để giành độc lập dân tộc. Từ khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (1941), Người viết nhiều tác phẩm bàn về vấn đề khởi nghĩa vũ trang với những quan điểm sâu sắc. 

 

(Bác Hồ tại Chiến dịch Biên giới, năm 1950)

1. Hồ Chí Minh chỉ rõ, khởi nghĩa vũ trang “phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn”(1), lực lượng khởi nghĩa phải là toàn dân, lấy liên minh công nông làm cốt và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Quan điểm này thể hiện rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa truyền thống “thân dân” của cha ông, cho rằng “dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”(2). Chủ trương dựa vào sức mạnh toàn dân của Người hoàn toàn đối lập với quan điểm “tả khuynh” của Quốc tế Cộng sản lúc đó là tuyệt đối hóa vai trò của giai cấp công nhân, hoàn toàn phủ nhận khả năng tham gia cách mạng của các giai cấp, tầng lớp hữu sản... Xác định rõ công nông là lực lượng nòng cốt,Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh sáng tạo, vượt qua những quan niệm đương thời để khơi dậy và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Dù các triều đại phong kiến tiến bộ cũng chủ trương “trăm họ là binh”, “bốn phương manh lệ” nhưng chưa bao giờ vai trò của nông dân được đề cao. Họ chỉ là những “thảo dân”, “thần dân” cần sự chăn dắt của các đấng bề trên là tầng lớp vua quan. Thậm chí, đến tận đầu thế kỷ XX, nhà yêu nước Phan Bội Châu khi kêu gọi sự đoàn kết dân tộc bằng cách chỉ ra “mười hạng người đồng tâm” là những phú hào, quan tước, thế gia, sĩ tịch, lính tập, giáo đồ, côn đồ nghịch tử, nhi nữ anh si, bồi bếp thông ký, cừu gia tử đệ, người đi du học... thì giai cấp công - nông vẫn hoàn toàn vắng bóng. Lực lượng “toàn dân” là tư tưởng dân tộc, nhưng “coi công nông là lực lượng nòng cốt” là quan điểm mang tính giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Quan điểm của Hồ Chí Minh vừa phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, vừa phát huy được sức mạnh của lực lượng tiên phong để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cuộc khởi nghĩa vũ trang trong thời kỳ mới. Đây chính là chìa khóa giải mã những thắng lợi của dân tộc ta trong cách mạng giải phóng và chiến tranh cách mạng. Đó không phải là sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự mà là sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh giai cấp. 

Vận dụng luận điểm của Lênin về tình thế cách mạng, Hồ Chí Minh nêu ba nhân tố của thời cơ khởi nghĩa: Chính quyền thực dân đế quốc đã lung lay, bối rối cao độ, không đủ sức giữ địa vị thống trị; Dân chúng bị đói khổ đã căm thù thực dân, đế quốc đến cực điểm, không thể ngồi yên chờ chết mà quyết chí hy sinh, đấu tranh đến cùng; Có một chính đảng cách mạng có đường lối, chính sách đúng đắn, được quần chúng tin cậy, có quyết tâm “làm cách mạng đến nơi”(3). Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thời cơ khởi nghĩa bao gồm cả điều kiện khách quan và chủ quan, là sự tổng hòa của các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” mà nhân hòa làm gốc. Người lý giải một cách giản dị, khoa học những nội dung về vận nước và bí kíp thành công: “Đại sự muốn thành công phải nhờ vận nước... Vận nước không phải là điều gì huyền bí. Vận nước tức là lòng dân và tình thế trong nước và bên ngoài”(4).

Về phương thức khởi nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ cần phải đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Ở các nước Âu, Mỹ các cuộc cách mạng thường hay bắt đầu từ những cuộc bãi công chính trị rồi tiếp đến mới là các cuộc vũ trang bạo động. “Ở nước ta, khởi nghĩa có thể bùng ra trong một nơi rồi dần dần lan ra khắp nước”(5). Đây là quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh được nhiều học giả phương Tây thừa nhận. Nhà sử học người Pháp Georges Bouldarel đã chỉ ra sự khác biệt trong hình thái khởi nghĩa ở Việt Nam: “Đó là cuộc cách mạng theo kiểu mới, riêng có của Việt Nam. Các thành phố không bị nông thôn bao vây, chúng đã vùng lên, đã tự chín muồi trên ý nguyện của chính mình... Với thời gian, tính chất độc đáo của cách mạng Việt Nam sẽ trở nên không thể biện bác”(6). Sự độc đáo, riêng có của cách mạng Việt Nam được khởi nguồn từ sự độc đáo trong tư duy của nhà chính trị - nhà chiến lược quân sự thiên tài Hồ Chí Minh. 

Bàn về khởi nghĩa vũ trang toàn dân, Hồ Chí Minh còn nêu quan điểm: Sau khi lật đổ chính quyền cũ, phải thành lập ngay chính quyền cách mạng của nhân dân. Đó phải là chính quyền kiểu mới, thực sự của dân, do dân, vì dân. Có dân là có tất cả, vì dân là phương cách hiệu quả nhất để bảo vệ chính quyền - thành quả của một cuộc cách mạng.

Với sự sáng suốt ở tầm chiến lược và tư duy thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác lập con đường duy nhất để giải phóng dân tộc thuộc địalà con khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Việc hiện thực hóa phát kiến đó của Hồ Chí Minh đã dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và mở đầu cho sự tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên quy mô toàn thế giới.

2.Vừa giành được độc lập bằng Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ để bảo vệ nền độc dân tộc, thống nhất đất nước. Trong điều kiện lịch sử mới, tư tưởng khởi nghĩa vũ trang toàn dân đã được Hồ Chí Minh phát triển thành tư tưởng chiến tranh nhân dân. Khái niệm chiến tranh nhân dân cần được hiểu theo 2 góc độ: Đây là cuộc chiến tranh được tiến hành bởi toàn thể nhân dân và đây là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân,mang lại cho nhân dân những điều họ khao khát nhất là độc lập, tự do, hạnh phúc, thống nhất, hòa bình...   

Theo Hồ Chí Minh, chiến tranh nhân dân ở một nước vừa thoát khỏi chế độ thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế kém phát triển, chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của các nước tư bản phát triển phải thực hiện theo phương châm: “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”.

Toàn dântheo tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, giới tính... Hễ là người Việt Nam, ai ai cũng phải có trách nhiệm tham gia kháng chiến để giữ vững nền độc lập Tổ quốc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (tháng 12-1946), Hồ Chí Minh viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(7). Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh kêu gọi: “31 triệu đồng bào ta ở cả 2 miền... phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ”(8).

Sinh ra trong một gia đình giàu lòng yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh thừa hưởng quan điểm tiến bộ về mối quan hệ giữa dân và nước: Nước do dân lập nên. Dân còn thì nước còn. Không có dân sao thành nước được. Không có nước thì dân lấy đâu ra sự che chở. Bên cạnh đó, sự trải nghiệm thực tế đã giúp Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người dân với Tổ quốc: “Tổ quốc là Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do. Nếu mất nước, thì ai cũng phải làm nô lệ”(9). Từ đó, Người khẳng định: “Dân ta phải giữ nước ta/ Dân là con nước, nước là mẹ chung”(10). Hồ Chí Minh cho rằng, phát động cuộc chiến tranh toàn dân không chỉ để tạo nên sức mạnh vô địch chiến thắng kẻ thù mà còn tạo ra cơ hội để tất cả mọi người thể hiện lòng yêu nước.Dùkhông phải ai cũng có thể cầm súng đánh giặc nhưng ai cũng có thể tham gia vào công cuộc kháng chiến tùy theo sức lực và khả năng của mình. Chẳng hạn “khi bộ đội lo đánh giặc thì chị em lo nấu cơm nấu nước, người giúp chuyên chở đạn dược, người thì băng bó săn sóc cho anh chị em bị thương. Thế là chị em cũng tham gia kháng chiến, cũng làm tròn nghĩa vụ quốc dân”(11). Ngay người ở hậu phương cũng hoàn toàn có thể tích cực tham gia kháng chiến bằng cách “làm ra gạo thóc cho chiến sĩ ăn, làm ra vải vóc cho chiến sĩ mặc... Hậu phương thắng lợi thì chắc tiền phương thắng lợi”(12). Hồ Chí Minh biết dựa vào sức mạnh vô địch là lực lượng toàn dân, khơi nguồn sức dân và bồi dưỡng sức dân. Tư tưởng toàn dân kháng chiến của Hồ Chí Minh đã góp phần hiện thực hóa truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam trong thời đại mới. 

Toàn diện kháng chiếntrong tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết bắt nguồn từ thực tế khách quan là chiến tranh tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội chứ không chỉ đơn thuần là quân sự. Về điều này, Hồ Chí Minh đã viết: “Chiến tranh ngày nay, đánh ở mặt sau, đánh về kinh tế, về chính trị, về tinh thần cũng quan trọng như đánh ngoài mặt trận. Phải biết phối hợp mọi phương pháp ấy mới có thể đi đến thắng lợi hoàn toàn”(13). Hơn nữa, bản thân kẻ thù cũng tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực hòng tiêu diệt ý chí phản kháng của ta nên để chiến thắng cuộc chiến tranh tổng lực ấy, “mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sỹ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hóa”(14). Mặt khác, do “địch quân sự mạnh nhưng chính trị yếu. Ta chính trị mạnh nhưng quân sự yếu”(15) nên nếu ta dùng sức mạnh quân sự để đối đầu thì không khác gì tự sát, “không dùng toàn lực của nhân dân để ứng phó không thể nào thắng được”(16).

Hồ Chí Minh cho rằng, trong cuộc chiến tranh toàn diện, các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, văn hóa... không bao giờ tách rời nhau mà luôn tác động, hỗ trợ lẫn nhau. Rõ ràng, “thắng lợi quân sự đem lại những thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho những thắng lợi quân sự to lớn hơn”(17); đấu tranh ngoại giao giúp đề cao sức mạnh chính trị của ta, phơi bày cái yếu về chính trị của kẻ  thù...

Cắt nghĩa về Kháng chiến trường kỳ, Hồ Chí Minh viết: “Trường là dài, tức là đánh bao giờ địch bại, địch “cút”, thế mới là trường”(18). Giải thích vì sao phải trường kỳ, Người cho rằng là nước nhỏ phải đánh lại bạo quyền xâm lược của nước lớn, tất yếu phải đánh lâu dài. Người viết: “Đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị về toàn diện của toàn dân”(19). Hơn nữa, với tương quan lực lượng lúc đầu hết sức chênh lệch, ta muốn thắng nhanh cũng không thắng nổi. “Pháp là “vỏ quýt dày”, ta phải có thời gian để mà mài “móng tay nhọn”, rồi mới xé toang xác chúng ra”(20). Về mặt nguyên tắc, trong cuộc đối đầu, ta nhất quyết phải phá tan những mưu đồ của địch. Địch âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” thì ta phải dùng sách lược đánh lâu dài. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn trị lửa phải dùng nước. Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng”(21). Hồ Chí Minh khẳng định: “Thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau(22), “trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” (23).

Tự lực cánh sinhlà dựa vào sức mình là chính, cả sức mạnh vật chất và tinh thần của toàn thể dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình...”(24).

Độc lập tự chủ là đặc tính nổi trội của dân tộc Việt Nam, đồng thời sự trải nghiệm thực tế đã giúp Người nhận thức được chân lý: Các dân tộc muốn được giải phóng phải dựa vào chính sức mình. Nuôi dưỡng tinh thần đó trong mọi chặng đường cách mạng. Người khẳng định: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(25). Trong quan hệ quốc tế, sự giúp đỡ của nước khác thường kèm theo điều kiện nhất định, nếu không cẩn trọng sẽ dẫn đến sự phụ thuộc. Vì thế, Người chỉ rõ: “Có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do”(26). Hơn nữa, trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, khi nước ta chưa được một quốc gia nào công nhận, giúp đỡ thì ta có thể trông chờ vào ai ngoài chính bản thân mình.

Tuy nhiên, tự lực cánh sinh theo Hồ Chí Minh không đồng nghĩa với tự cô lập mình, mà vẫn tìm mọi sự giúp đỡ, hợp tác với nước khác trên tinh thần độc lập, tự chủ. Hồ Chí Minh viết: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác”(27).

Đường lối kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh” đã được Hồ Chí Minh khái quát trong bài thơ Chúc năm mới 1947: “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến/ Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng/ Tiến lên chiến sỹ! Tiến lên đồng bào!/ Sức ta đã mạnh, người ta đã đông/ Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi!/ Thống nhất độc lập, nhất định thành công!”(28).

Nhà sử học người Pháp Georges Boudarel đã nhận xét: Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh đã làm những “người nhà quê, những người nông dân chân đất chiến thắng những ông lớn được trang bị tận răng, đi ủng cao và mặc quân phục dã chiến”(29). Thủ tướng Phạm Văn Đồng đúc kết: “Hiếm có ở nơi đâu, chiến tranh nhân dân trong thực tế lại đúng với tên gọi của nó như vậy, thực sự sâu rộng trong nhân dân và thực sự vô địch như nhân dân... Vì vậy, cống hiến lớn nhất của Hồ Chí Minh vào lý luận về phương pháp cách mạng chính là lý luận về chiến tranh nhân dân”(30).

_____________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2015

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.468.

(2) Sđd, t.2, tr.274.

(3), (4), (5) Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hồ sơ Hồ Chí Minh, “Con đường giải phóng”, tr.25, 14, 26.

(6) Xem: Lê Đỗ Huy:  Cách mạng Tháng Tám: Dân chủ, dân chủ hơn nữa. Nguồn:http//kienthuc.net.vn

(7), (9), (10), (11), (12), (21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.480, 485, 486, 486, 486, 485.

(8) Sđd, t.12, tr.323.

(13) XemBáo Cứu quốc ngày 7-6-1946.

(14), (26), (28) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr 444, 441, 17.

(15) Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, t.8, tr.137.

(16) Xem Báo Cứu quốc, ngày 20-9-1946.

(17)Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr.148.

(18), (19), (20), (22), (23), (24), (25), (27) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr.522, 164, 165, 82, 84, 522, 522, 522.

(29) Xem: Georges Boudarel: Võ Nguyên Giáp, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2012.

(30) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh: Một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990, tr.42.

 

TS Trần Thị Minh Tuyết

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền