Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Sự sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới
Thứ hai, 21 Tháng 12 2015 11:27
9041 Lượt xem

Sự sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới

(LLCT) - Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo gần 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đây là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, trải nghiệm và liên tục đổi mới tư duy của Đảng trên mọi lĩnh vực, trong đó đổi mới nhận thức về thế giới và tư duy đối ngoại để hoạch định và triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, có vị trí quan trọng nổi bật. Những sáng tạo trong đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng góp phần kết hợp một cách hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa nước ta ngày càng chủ động và tích cực hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới vì mục tiêu phát triển.

 

(Ngoại giao Việt Nam vươn tới tầm cao mới, Ảnh: chinhphu.vn)

Đáp ứng những đòi hỏi trên, Đại hội VI của Đảng (1986) khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử cách mạng nước nhà. Trong lĩnh vực đối ngoại, Đại hội VI tiến hành đổi mới tư duy trên cơ sở chủ trương được vạch ra từ Nghị quyết 32/BCT của Bộ Chính trị khóa V (7-1986) về việc mở ra cục diện đấu tranh mới, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, tạo thế ổn định để tập trung phát triển kinh tế. Quá trình đổi mới tư duy, hình thành đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng ngày càng được hoàn thiện và làm phong phú thêm bằng những nhận thức mới.

Một trong những nét đặc trưng nổi bật nhất của quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng là quán triệt sâu sắc, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Xét trên nhiều góc độ, đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng là sự trở lại với tư duy biện chứng duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, với nhãn quan chiến lược và sách lược đối ngoại đúng đắn của Hồ Chí Minh. Những tinh hoa trong tư tưởng ngoại giao nhân văn, hòa bình, rộng mở, linh hoạt, mềm dẻo có nguyên tắc của Hồ Chí Minh trở thành nền tảng lý luận và ngọn cờ tư tưởng cho đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Có thể thấy, sự sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới được thể hiện rõ nét trên nhiều mặt. Trước hết, Đảng ta chú trọng đổi mới việc nhận thức, đánh giá cục diện và xu thế phát triển của thế giới. Trước đây, khi phân tích tình hình thế giới, do tác động của chiến tranh lạnh và cuộc đối đầu Đông - Tây gay gắt, nên nhận thức của ta thường có biểu hiện mang tính một chiều. Bởi vậy chưa thấy hết những chuyển động phức tạp trong cục diện thế giới, nhất là quan hệ giữa các nước lớn và xu thế đi vào hòa hoãn giữa họ, chưa lường hết được diễn biến bất lợi đối với hệ thống XHCN, nhất là từ cuối thập niên 70 trở đi. Đại hội VI đặt vấn đề mở rộng quan hệ đối ngoại trước sự phát triển của xu thế hoà hoãn trên thế giới, xu thế quốc tế hoá và hợp tác kinh tế giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau. Đại hội chỉ rõ, muốn kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Đây là một biểu hiện rõ nhất trong đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng trên cơ sở vận dụng nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, mở ra khả năng nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, giữa an ninh và phát triển, giữa hợp tác và đấu tranh nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Bước ngoặt mang tính đột phá sáng tạo đối với sự phát triển tư duy đối ngoại, cũng như nhận thức cục diện thế giới và xu thế thời đại, được mở ra từ Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5-1988), sau đó được Nghị quyết Trung ương 6 khoá VI, (3-1989) nâng lên một tầm cao mới. Đảng ta trong khi vẫn nêu bật tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp, đã chỉ rõ khả năng đẩy lùi nguy cơ chiến tranh thế giới đang tăng lên, xu thế đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau ngày càng phát triển; hòa bình, ổn định và phát triển càng nổi lên thành xu thế lớn của thời đại... Từ đây, Đảng xác định ưu tiên đối ngoại hàng đầu là giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế, nhấn mạnh chính sách “thêm bạn bớt thù”, đa phương hóa quan hệ quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền cùng có lợi, kiên quyết và chủ động chuyển sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình. Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI còn vạch rõ cần phải chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước đột phá về tư duy đối ngoại nêu trên đã định hình những quan điểm cơ bản trong đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng ta.  

Trong đổi mới tư duy về quan hệ quốc tế, điểm mấu chốt nhất là Đảng ta ngày càng nhận thức rõ sự chuyển dịch lớn trong quan hệ quốc tế, nhất là quan hệ giữa các nước lớn, từ tình trạng đối đầu gay gắt về chính trị - quân sự, khu biệt về kinh tế sang vừa đấu tranh, vừa hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình. Do đó, Đảng có nhận thức ngày càng sát hợp, đúng đắn hơn về vấn đề tập hợp lực lượng, về xử lý các vấn đề quốc tế liên quan trực tiếp đến nước ta. Trước những động thái mới trên thế giới từ giữa thập niên 80 thế kỷ XX, tư duy về quan hệ quốc tế của Đảng có sự điều chỉnh, phát triển và ngày càng trở nên uyển chuyển, linh hoạt hơn. Từ sau Đại hội VI, Đảng chủ trương ra sức tận dụng sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật và xu thế quốc tế hóa, tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế, phá thế bao vây cô lập về kinh tế và chính trị. Đảng xác định đúng và trúng điểm đột phá để phá thế bao vây cấm vận là giải quyết vấn đề Campuchia cùng với việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, xây dựng quan hệ với ASEAN và cải thiện để đi đến bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Sự lựa chọn điểm đột phá này đặt cơ sở cho những ưu tiên cao của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển quan hệ với các nước láng giềng và các nước lớn thời kỳ sau chiến tranh lạnh.

Mặt khác, Đảng ta ngày càng chú trọng đổi mới nhận thức một số vấn đề cơ bản về thời đại ngày nay. Trước những diễn biến vô cùng phức tạp của thế giới, đặc biệt sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, vấn đề thời đại trở thành một tiêu điểm nóng bỏng của cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận. Song, do nỗ lực đổi mới tư duy lý luận, tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới, nên nhận thức về thời đại của Đảng đã từng bước được bổ sung, hoàn thiện, cách tiếp cận sát hợp và rõ nét hơn, góp phần quan trọng vào quá trình hình thành quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đại hội VI đã xác định đúng đắn rằng, Việt Nam đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đồng thời, “do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, nên thời kỳ quá độ ở Việt Namphải lâu dài và rất khó khăn.

Đại hội VII của Đảng diễn ra khi chế độ XHCN ở Đông Âu đã bị sụp đổ, Liên Xô đi chệch hướng cải tổ và đang đứng trước nguy cơ tan rã, phong trào cộng sản quốc tế bị đẩy tới tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Mặc dù vậy, dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới và từ sự phân tích thấu đáo tình hình quốc tế, Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,trong đó khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử”(1). Quan điểm này tiếp tục được quán triệt, làm rõ trong các văn kiện Đảng sau năm 1991. Đây là sự thể hiện nổi bật lập trường vững vàng, nhất quán của Đảng đối với lý tưởng XHCN, đối với học thuyết Mác - Lênin về quy luật tiến hoá của lịch sử. Đồng thời, đây cũng là cơ sở khoa học định hướng đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng trước những biến cố bước ngoặt của thời cuộc. Điểm cốt lõi nhất trong sự phát triển nhận thức của Đảng về thời đại là thấy rõ thời đại quá độ lên CNXH là cả một thời kỳ lịch sử lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn và diễn ra không giản đơn, dễ dàng mà gay go, phức tạp. Nhận thức này giúp đoạn tuyệt dứt khoát với lối tư duy chủ quan, một chiều về sự vận động của thời đại quá độ lên CNXH do chưa thấy hết được toàn bộ tính chất gay go, phức tạp của nó. Đảng coi trọng việc đánh giá các mâu thuẫn cơ bản của thời đại, đồng thời cũng làm rõ thêm những đặc điểm chủ yếu của thế giới đương đại, như: vai trò của cách mạng khoa học công nghệ, của xu thế toàn cầu hoá và kinh tế tri thức đối với nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc. 

Đảng ta luôn chú trọng việc xác định và làm rõ tư tưởng chỉ đạo đối ngoại trên cơ sở lợi ích và mục tiêu đối ngoại của đất nước. Đối với nước ta, lợi ích và mục tiêu cao nhất về đối ngoại, được Đảng xác định rõ là giữ vững hoà bình để phát triển, nghĩa là phải tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia. Do đó, tư tưởng chỉ đạo đối ngoại là: giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có quan hệ. Đây cũng chính là sự kế thừa và vận dụng một cách sáng tạo quan điểm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, vừa kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình mới.

Tiếp tục phát triển và làm sâu sắc thêm tư tưởng chỉ đạo đối ngoại được nêu ra trong các nhiệm kỳ đại hội trước đó, Đại hội X khẳng định các quan điểm: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”(2). Quan điểm của Đại hội X được Đại hội XI kế thừa, bổ sung và phát triển toàn diện hơn khi xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(3). Quán triệt các quan điểm mang tính chỉ đạo này là cơ sở quan trọng để bảo vệ lợi ích của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết là giữ vững được độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia và định hướng XHCN. Mặt khác, trên cơ sở đó nước ta có thể tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế quốc tế, tranh thủ nguồn lực bên ngoài phục vụ cho xây dựng và phát triển kinh tế, bảo vệ Tổ quốc. Với thế và lực mới của đất nước, tư tưởng chỉ đạo của Đảng nhấn mạnh không chỉ tính chủ động và tích cực trong quá trình hội nhập quốc tế, mà còn thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của nước ta trong việc tham gia giải quyết các vấn đề khu vực và thế giới, đóng góp cho hòa bình, hợp tác và phát triển.

Phù hợp với mục tiêu của đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển của chính sách đối ngoạirộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, Đảng cũng luôn xác định một cách nhất quán nhiệm vụ đối ngoại cơ bản trong suốt thời kỳ đổi mới. Nhiệm vụ đó được tiếp tục khẳng định và phát triển tại Đại hội XI. Đó là: “Giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(4). Nhiệm vụ đối ngoại trước hết là phấn đấu bảo vệ lợi ích dân tộc, tạo được môi trường hòa bình để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối ngoại phải xuất phát từ lợi ích tối cao của dân tộc là xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và phải tạo được các điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ cho lợi ích đó. Song, đặt cao lợi ích dân tộc không có nghĩa từ bỏ hoặc xem nhẹ chủ nghĩa quốc tế chân chính, mà là góp phần thực hiện nghĩa vụ quốc tế của Đảng trong điều kiện và khả năng thích hợp đối với các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới, đấu tranh vì những mục tiêu cao cả mang tính thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Sự sáng tạo trong đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng còn được thể hiện qua việc nêu ra và thực hiện tốt phương châm xử lý các vấn đề quốc tế. Đó là: Bảo đảm lợi ích dân tộc cao nhất là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, thúc đẩy mặt hợp tác, đấu tranh để hợp tác, tránh trực diện đối đầu, tránh bị đẩy vào thế cô lập. Giữ vững độc lập tự chủ, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Chú trọng hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, trong đó đặt cao quan hệ với các nước lớn; chủ động tham gia các tổ chức đa phương trong khu vực và toàn cầu.  

Triển khai đường lối đối ngoại đổi mới sáng tạo và đúng đắn, nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, giữ vững môi trường hòa bình, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, vị thế đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nước ta ngày càng chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy, củng cố xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới.  

Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 177 nước, trong đó bao gồm tất cả các nước lớn, có quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức của tất cả các tổ chức quốc tế lớn, các tổ chức và định chế thương mại, tài chính chủ chốt ở khu vực cũng như trên thế giới. Việt Nam năng động mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện với các nước láng giềng; chủ động thúc đẩy quan hệ với các nước lớn và các nước công nghiệp phát triển, tạo bước tiến tích cực trong quá trình củng cố và xây dựng các khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác toàn diện và đối tác phát triển; coi trọng củng cố và phát triển quan hệ với các đối tác bạn bè truyền thống, với các nước đang phát triển Á - Phi - Mỹ Latinh. 

Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế được đặc biệt quan tâm. Đến nay, nước ta đã thu hút được hơn17 nghìn dự án FDI với tổng số vốn đăng ký hơn 170 tỷ USD. Cộng đồng doanh nghiệp và tài trợ quốc tế tỏ rõ niềm tin đối với công cuộc đổi mới, tiếp tục cam kết tài trợ cho Việt Nam. Bên cạnh các thị trường chủ lực là Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ, Ôxtrâylia, hàng hóa Việt Nam đã vươn mạnh ra nhiều thị trường khác như Nga, Trung Đông, Mỹ Latinh và châu Phi... Bởi vậy, ngay cả trong bối cảnh khó khăn của kinh tế toàn cầu hiện nay, nước ta vẫn tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài, góp phần thiết thực khắc phục suy giảm kinh tế trong nước. Mặt trận đối ngoại đã tích cực đồng hành, chung tay cùng cả nước, góp phần vào thành tích phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Việt Nam vẫn là một điểm đến hấp dẫn của giới đầu tư nước ngoài. 

Ngoại giao văn hóa được xác định là một trong ba trụ cột của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế. Với trọng tâm “quảng bá, xúc tác, mở đường, vận động, tiếp thu”, ngoại giao văn hóa chú trọng quảng bá hình ảnh và tiềm năng đất nước với nhiều hoạt động phong phú, đa dạng, gây được ấn tượng tốt đẹp và thiện cảm của cộng đồng quốc tế. Với hành trang văn hóa độc đáo và giàu truyền thống, Việt Nam ngày càng tự tin, năng động vươn lên tầm cao mới trong giao lưu và hội nhập với khu vực và thế giới.

Sự phối hợp nhịp nhàng, có hiệu quả giữa đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân với ngoại giao nhà nước tạo nên diện mạo đa dạng với nội dung và hình thức phong phú của đối ngoại Việt Nam trong quá trình hội nhập. Quan hệ của Đảng ta với các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả, các phong trào dân chủ tiến bộ xã hội tiếp tục được củng cố và phát triển. Qua đó, giữa các bên có sự phối hợp hành động thiết thực, đáp ứng lợi ích của mỗi bên trong quan hệ song phương và trên các diễn đàn đa phương. Đảng ta cũng chủ động mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, nhất là với đảng cầm quyền ở các nước láng giềng và khu vực, góp phần tăng cường quan hệ ngoại giao nhà nước. Đối ngoại nhân dân tiếp tục đổi mới toàn diện với lực lượng tham gia ngày càng đông đảo, địa bàn hoạt động và đối tác ngày càng mở rộng. Công tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đã thu hút được các nguồn tài trợ, đóng góp thiết thực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác vận động dư luận quốc tế và thông tin tuyên truyền đối ngoại ngày càng đổi mới cả về nội dung và hình thức. Việt Nam tranh thủ được sự ủng hộ của nhiều nước và nhiều tổ chức phi chính phủ trong đấu tranh dư luận xung quanh các vấn đề chính trị nhạy cảm, cũng như những áp đặt bất hợp lý đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế thời gian qua.

Hoạt động ngoại giao đa phương của nước ta có bước trưởng thành và phát triển nổi bật. Tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, Việt Nam đã phối hợp với nhiều nước đấu tranh bảo vệ hòa bình, bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp quốc. Việt Nam được bầu và đã hoàn thành trọng trách Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, xử lý khéo léo các vấn đề phức tạp, chủ động đề xuất nhiều sáng kiến quan trọng. Đặc biệt, tháng 7-2008 và 10-2009, hai lần trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Bảo an, Việt Nam tỏ rõ sự chủ động và linh hoạt cao trong xây dựng nghị trình làm việc hợp lý, lựa chọn và thúc đẩy thảo luận các vấn đề cộng đồng quốc tế quan tâm. Trong đó, ấn tượng nhất phải kể đến sự chủ trì thành công của Việt Nam hai Phiên thảo luận mở của Hội đồng Bảo an về các chủ đề: “Trẻ em trong xung đột vũ trang” (CAAC) và “Đáp ứng nhu cầu của phụ nữ và trẻ em gái giai đoạn hậu xung đột”. Các nước và các tổ chức quốc tế tham gia các Phiên thảo luận đánh giá rất cao chủ đề do Việt Nam lựa chọn có mục đích và tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc là bảo vệ trẻ em và phụ nữ, những người chịu tác động nặng nề nhất trong xung đột và chiến tranh. Tham gia Hội đồng Bảo an với trọng trách Ủy viên không thường trực, Việt Nam có điều kiện thuận lợi tham gia giải quyết những vấn đề chính trị - xã hội, an ninh quốc tế có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp, đồng thời đóng góp tích cực hơn và nhiều hơn trong nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định và phát triển trên thế giới.

Có thể nói, chưa bao giờ quan hệ đối ngoại của Việt Nam lại rộng mởvà phát triển như hiện nay. Đối ngoại thời kỳ đổi mới đạt những thành tựu to lớn, một mặt góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tranh thủ tốt nguồn lực bên ngoài cho mục tiêu phát triển đất nước; mặt khác vững tin vươn lên trưởng thành vượt bậc, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, góp phần nâng tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Những thành tựu đó là biểu hiện sinh động nhất về tính sáng tạo, đúng đắn trong đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng ta r

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2015

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng  Toàn tập, t.51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.133.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr.112.

(3), (4) ĐSCVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.83-84, 236.

                                                     

 

PGS, TS Nguyễn Tất Giáp

Phó Giám đốc

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền