Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Những phác thảo của V.I.Lênin về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
Thứ tư, 13 Tháng 4 2016 09:45
30538 Lượt xem

Những phác thảo của V.I.Lênin về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội

(LLCT) - Chủ nghĩa xã hội (CNXH) theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là một xã hội tiến bộ, ưu việt, là quá trình lịch sử tự nhiên phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người. V.I.Lênin khi nêu ra những đặc trưng của CNXH đã không coi đó là mô hình bất biến, và đã phác thảo trên một số nét cơ bản như sau:

Thứ nhất, mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện

Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc, thực hiện được sự công bằng, bình đẳng xã hội.

Thứ hai,cơ sở vật chất của CNXH được tạo ra bởi một lực lượng sản suất tiên tiến, hiện đại

Lênin khẳng định, cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH phải là nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. “Chủ nghĩa cộng sản = chính quyền Xô viết + điện khí hóa”(1). Lênin còn chỉ ra phải học CNTB cả trên lĩnh vực văn hóa và quản lý, Người nói: Hãy dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các Tơ rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ.

Thứ ba,CNXH là từng bước xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất

Lênin cho rằng, CNXH là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, “từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất và chế độ phân phối theo lao động của mỗi người”(2). Trong khi thay thế chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và lưu thông bằng chế độ sở hữu xã hội, ông cho rằng cần phải lập ra một tổ chức hợp lý các quá trình sản xuất xã hội để đảm bảo phúc lợi và sự phát triển toàn diện của các thành viên trong xã hội, cuộc cách mạng XHCN của giai cấp vô sản sẽ thủ tiêu tình trạng phân chia xã hội thành giai cấp và do đó sẽ giải phóng toàn thể loài người bị áp bức, chấm dứt mọi hình thức bóc lột của bộ phận xã hội này với bộ phận xã hội khác.

Lênin cũng cho rằng, trong “giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa”, chưa thể thực hiện công bằng, bình đẳng, về mặt của cải thì vẫn còn chênh lệch, nhưng tình trạng người áp bức bóc lột người không còn nữa vì những tư liệu sản xuất chủ yếu đã được sở hữu thuộc về xã hội. Từ thực tế nước Nga, sau Cách mạng Tháng Mười, ông cho rằng, trong giai đoạn đầu của CNXH thì trong xã hội vẫn tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần tương ứng với mỗi thành phần kinh tế là một hình thức sở hữu riêng. Do đó, tất yếu khách quan trong CNXH có sự tồn tại của các loại lợi ích khác nhau và do các thành phần kinh tế quy định nên trong CNXH còn tồn tại các giai cấp. Lênin chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng kinh tế tập thể (công hữu) vẫn giữ vai trò chủ đạo, chỉ huy và định hướng các thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo XHCN.

Theo V.I.Lênin, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, cần thiết phải khôi phục lại quan hệ hàng hóa - tiền tệ và sự phát triển của sản xuất hàng hóa. Nhưng sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa tất yếu sẽ dẫn đến phân hóa giàu nghèo và làm phát sinh trở lại quan hệ sản xuất TBCN, nhưng không vì thế mà ngăn cấm, điều quan trọng là phải tìm cách hướng các quan hệ sản xuất TBCN ấy vận động theo quỹ đạo chung của nền kinh tế quá độ lên CNXH. Theo Lênin, tốt nhất là hướng chúng vào con đường của CNTB nhà nước, đó chính là sự “kết hợp, liên hợp, phối hợp giữa nhà nước Xô viết - nền chuyên chính vô sản với chủ nghĩa tư bản”(3).

Thứ tư, CNXH tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng suất cao

Trong những luận giải của mình về CNXH, V.I.Lênin đã nêu rõ nguyên nhân vì sao CNXH đã tạo ra được một năng suất lao động cao hơn so với CNTB. Ngoài cơ sở vật chất là nền đại công nghiệp hiện đại, thì còn do những yếu tố vốn có của CNXH, những yếu tố này không thể có được trong lòng CNTB. Đó là cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới. V.I.Lênin khẳng định kỷ luật của chế độ nô lệ và chế độ phong kiến là kỷ luật roi vọt; kỷ luật của CNTB là kỷ luật đói; còn kỷ luật của CNXH là kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những người lao động.

Để có được cách tổ chức lao động mới thì cần phải thực hiện chế độ kiểm kê, kiểm soát toàn dân. Khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, tư tưởng về sự kiểm kê, kiểm soát toàn dân được đề cao, V.I.Lênin coi đó là để cứu nước Nga khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, nhưng vẫn đảm bảo cho nước Nga tiến lên CNXH. Ông coi việc kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm là một hình thức của sự quá độ, là cái giữ cho xã hội không đi chệch khỏi con đường XHCN trong điều kiện thực hiện CNTB nhà nước. Như vậy, CNXH sẽ tạo ra một năng suất lao động cao hơn CNTB nhờ việc đưa ra một hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới. Hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động đó được thực hiện trên cơ sở của sự kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với việc sản xuất và phân phối sản phẩm đảm bảo lợi ích của người lao động.

Thứ năm,CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động

Đó là việc phân phối tư liệu sinh hoạt cho mỗi người sản xuất. Theo V.I.Lênin, phân phối theo lao động là cách thức phân phối trong giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cách thức phân phối theo lao động là thích hợp nhất với CNXH, bởi vì nó được dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Phân phối theo lao động không có nghĩa là mỗi người làm được bao nhiêu sản phẩm thì được hưởng hết bấy nhiêu. Trái lại, tổng sản phẩm do lao động xã hội tạo ra phải được đem phân phối cho cả tiêu dùng cá nhân, cho cả tích lũy tái sản xuất mở rộng và cho cả tiêu dùng công cộng của xã hội. Phương thức phân phối sẽ thay đổi tùy theo bản thân loại cơ cấu sản xuất xã hội và tùy theo trình độ phát triển lịch sử tương ứng của những người sản xuất.

V.I.Lênin chỉ rõ, trong CNXH của cải làm ra chưa đạt đến mức dồi dào, lao động còn là nghĩa vụ, là phương tiện để sinh sống chứ chưa trở thành nhu cầu bậc nhất của đời sống ở giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản. Do đó, cách phân phối sản phẩm theo lao động được dựa trên hai nguyên tắc: “người nào không làm thì không ăn”; “số lượng lao động ngang nhau thì hưởng số sản phẩm ngang nhau”. Hơn nữa, CNXH ra đời và phát triển chưa phải dựa trên cơ sở của chính nó mà thoát thai từ xã hội cũ nên vẫn còn nhiều dấu vết, sức ỳ của xã hội cũ, nhiều người còn trốn tránh, lười biếng trong lao động. Vì vậy, cần thiết phải phân phối theo lao động và kiểm tra kiểm soát nghiêm mức độ lao động và tiêu dùng của mỗi người.

Thứ sáu, nhà nước trong CNXH là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.

Tác phẩm Nhà nước và cách mạngnổi tiếng được Lênin viết tại Radơlip (Phần Lan) là toàn bộ lý luận về nhà nước, những quan điểm về một nhà nước kiểu mới - Nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới của Lênin. Trong tác phẩm này, Lênin không những đã lĩnh hội được quan điểm của Mác và Ăngghen về xây dựng một nhà nước cách mạng mà còn phát triển một bước học thuyết của chủ nghĩa Mác về nhà nước và chuyên chính vô sản ở nước Nga. 

Theo Lênin, nhà nước được thành lập bởi thắng lợi của cách mạng vô sản phải là một nhà nước trên cơ sở đập tan toàn bộ bộ máy nhà nước cũ. Khi giai cấp vô sản giành được chính quyền thì sức mạnh của đảng được thực hiện thông qua nhà nước, đảng sẽ lãnh đạo được toàn xã hội. Để giúp giai cấp vô sản hiểu về nhà nước, biết cách quản lý nhà nước của mình, Người chỉ ra các nguyên tắc cho việc xây dựng một nhà nước sau thắng lợi của cách mạng vô sản. Đó là, phải đảm bảo sự lãnh đạo của đảng cộng sản - đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân; đảm bảo tập trung dân chủ trong cơ chế vận hành của nhà nước và đảm bảo dân chủ trong xã hội.

Lênin nhấn mạnh, thông qua nhà nước, đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn. “Chính quyền Xô viết là một kiểu nhà nước mới, không có bộ máy quan liêu... một kiểu nhà nước trong đó nền dân chủ tư sản được thay thế bằng nền dân chủ mới - một nền dân chủ đang đưa đội tiên phong của quần chúng lên hàng đầu, là cho quần chúng trở thành những người lập pháp và hành pháp, thành những đội vũ trang bảo vệ và thiết lập một bộ máy có khả năng cải tạo quần chúng”(4). Để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước cần hết sức quan tâm vấn đề đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Muốn đổi mới bộ máy nhà nước thì “chúng ta phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa... phải làm sao cho học thức thật sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống”(5). Trong đó, công tác tuyển chọn, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ cần hết sức chú ý đến các tiêu chuẩn:a) về mặt trung thực; b) về lập trường chính trị; c) về mặt hiểu biết công việc; d) về năng lực quản lý. Người còn nhấn mạnh, cần đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước. Và, không được chần chừ, do dự, phải mạnh dạn thay đổi những cán bộ năng lực yếu kém, không chịu khó học tập. Muốn vậy, nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng cường pháp chế XHCN.

Thứ bảy, trong CNXH, các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế được giải quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

Đối với Lênin, tiếp cận và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm Quyền dân tộc tự quyếtviết năm 1914, Lênin đã nêu rõ nội dung cương lĩnh dân tộc của Đảng: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc lại; đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm nước Nga dạy cho công nhân”(6).

Khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Từ đó, Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sảnthành: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.

“Chủ nghĩa xã hội có mục đích không những xóa bỏ tình trạng nhân loại bị chia thành những quốc gia nhỏ, xóa bỏ mọi trạng thái biệt lập giữa các dân tộc, không những làm cho các dân tộc gần gũi nhau, mà cũng còn nhằm thực hiện việc hợp nhất các dân tộc lại”(7). Chính vì vậy, CNXH nhất thiết phải bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, về lịch sử ra đời sớm hay muộn, trình độ phát triển cao hay thấp giữa các dân tộc. Đối lập với các chế độ áp bức bóc lột người thường phân biệt, kỳ thị và chia rẽ các dân tộc, CNXH gắn việc xây dựng tình đoàn kết các dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc hiện nay. CNXH gắn liền với việc xây dựng tình đoàn kết các dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc hiện nay. Đồng thời, phải đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phản động, cần phải phân biệt chủ nghĩa dân tộc của dân tộc đi áp bức và chủ nghĩa dân tộc của một dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa dân tộc của một dân tộc lớn với chủ nghĩa dân tộc nhỏ.

Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc, từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn. Trong quá trình đổi mới nhận thức, Đảng ta đã nhận thấy việc xác định đúng mô hình CNXH là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta. Bởi đó là cơ sở, là định hướng để Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm hiện thực hóa mục tiêu CNXH ở Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội(Bổ sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh, chuẩn hóa một số nội dung và cô đọng hóa một số đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(8).  

Các đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng được nêu trên là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về CNXH, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó cũng là thực hiện di huấn của Lênin  “Hãy đưa chủ nghĩa xã hội vào cuộc sống”, và là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù”, cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình: CNXH Việt Nam. Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể thể hiện tính ưu việt của CNXH Việt Nam.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2015

(1) V.I.Lênin: Toàn tập, t.42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.280.

(2) Sđd, t. 31, tr.220.

(3) Sđd,  t.43, tr.268.

(4) Sđd, t.36, tr.65.

(5) Sđd, t.45, tr.18.

(6) Sđd, t.25, tr.375.

(7) Sđd, t.27, tr.375

(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70.

 

PGS,TS Nguyễn Thị Ngân

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền