Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Chỉ đạo chiến lược trong những bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Thứ ba, 19 Tháng 4 2016 17:08
6944 Lượt xem

Chỉ đạo chiến lược trong những bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

(LLCT) - Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trải qua 21 năm, là cuộc chiến tranh cứu nước ác liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Trong chiến tranh, cuộc đọ sức quyết liệt không chỉ diễn ra ở chiến trường, mà còn là cuộc đấu trí diễn ra căng thẳng, từng giờ từng phút ở các cấp lãnh đạo chỉ huy, trước hết là ở cấp chiến lược, bộ tham mưu đầu não của hai bên. Vì sao Đảng và nhân dân Việt Nam phải quyết định tiến hành đấu tranh vũ trang chống đế quốc Mỹ xâm lược; tổ chức cuộc kháng chiến như thế nào; giải quyết các tình huống chiến lược ra sao; mở đầu và kết thúc chiến tranh được chỉ đạo như thế nào, là những vấn đề chỉ đạo chiến lược trong chiến tranh cách mạng.

1. Nghệ thuật mở đầu kháng chiến

Chiến tranh là sự thử thách to lớn, toàn diện và khắc nghiệt đối với một quốc gia, vận mệnh dân tộc và sinh mạng con người. Khi nguy cơ chiến tranh xuất hiện, chấp nhận chiến đấu hay bằng cách nào có thể tránh được họa binh đao mà vẫn giữ vững chủ quyền quốc gia, dân tộc; và khi không còn con đường nào khác, buộc phải sử dụng biện pháp vũ trang thì chuyển toàn bộ đất nước vào thời chiến như thế nào? Đây thật sự là những vấn đề cực kỳ trọng đại, bởi nó liên quan tới sự mất còn của nền độc lập dân tộc, của chế độ, quyết định sự thành bại của cuộc kháng chiến.

Chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954-1975) trước hết xuất phát từ lợi ích của các nước đế quốc, từ chiến lược toàn cầu của Mỹ mà căn nguyên sâu xa là từ bản chất chế độ chính trị. Thực tế lịch sử cho thấy, đế quốc Mỹ đã có một quá trình toan tính kỹ lưỡng khi quyết định dùng lực lượng và phương tiện quân sự để xâm lược Việt Nam.

Nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Giơnevơ (7-1954), Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã làm hết sức mình nhằm đạt được mục tiêu hoà bình, thống nhất đất nước. Song, Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa, ngay từ đầu đã xé bỏ Hiệp định, sử dụng mọi biện pháp chống lại sự nghiệp hoà bình thống nhất đất nước. Chính quyền Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp các phong trào hòa bình, bắt bớ, truy bức, giết hại những người yêu nước ở khắp miền Nam, từ thành thị đến nông thôn.

Những năm 1958-1959, cách mạng miền Nam ở vào thời kỳ vô cùng khó khăn. Tổ chức đảng từ cấp xứ xuống đến các chi bộ bị đánh phá ác liệt. Số cán bộ, cấp ủy bị thiệt hại lớn, số lượng đảng viên sụt giảm chưa từng thấy. Năm 1956, toàn Nam Bộ có 800 chi bộ, đến cuối năm 1959, chỉ còn một số ít chi bộ, hoạt động rất khó khăn. Đến giữa năm 1959, Nam Bộ chỉ còn 3 nghìn đảng viên bám xã. Số cán bộ tương đương huyện ủy, tỉnh ủy bị bắt nhiều(1). Ở Đông Nam Bộ, cuối năm 1954, ta bố trí ở lại Gia Định 3.700 đảng viên(2), đến năm 1959, Đảng bộ chỉ còn 1 chi bộ. Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn đầu năm 1957 còn 600 đảng viên, đến cuối năm 1958 còn 200 đồng chí(3). Có những địa phương bị thiệt hại nặng như: huyện Hóc Môn (Gia Định) năm 1954 bố trí ở lại 1 nghìn đảng viên, đầu năm 1959 chỉ còn 1 đảng viên(4).

Trước thực tế như vậy, trong những năm 1954-1959, Đảng vẫn kiên trì  không đấu tranh vũ trang, các cán bộ, đảng viên tại chỗ vừa phải đối phó với sự khủng bố gắt gao của chính quyền Ngô Đình Diệm, vừa chịu sức ép lớn từ phía cơ sở và những quần chúng cách mạng. Không ít cán bộ đảng viên và quần chúng thắc mắc, hoài nghi đường lối của Đảng, họ muốn đấu tranh vũ trang ngay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định hòa bình thống nhất nước nhà là nguyện vọng tha thiết, phải tranh thủ mọi thời cơ để thống nhất một cách hòa bình. Đấu tranh vũ trang chỉ buộc phải thực hiện khi không còn con đường nào khác.

Vấn đề đặt ra trước Trung ương Đảng, Chính phủ là đề ra được chủ trương, phương pháp, bước đi cho cách mạng miền Nam như thế nào để giành thắng lợi mà ít tổn thất nhất, lại phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Đây là vấn đề cực kỳ khó khăn và phức tạp. Trong giai đoạn này, giữa hai phe XHCN và đế quốc chủ nghĩa xuất hiện xu thế hòa hoãn, các nước lớn trong phe XHCN không muốn Đảng ta phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Liên Xô, Trung Quốc chung quan điểm duy trì hiện trạng Việt Nam chia cắt thành 2 miền với chế độ chính trị khác nhau và thuyết phục Việt Nam chấp nhận tạm thời sự chia cắt đất nước.

Trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế diễn biến phức tạp, Đảng ta đã nhận thức rõ phải có một đường lối cách mạng ở miền Nam cho phù hợp, mà then chốt là phải chuyển chiến lược đấu tranh. Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị lần thứ 15 (mở rộng)(5) để xác định đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam. Nghị quyết Trung ương 15 đã xác định con đường tiến lên của cách mạng miền Nam là: Khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Phương thức giành chính quyền là dùng sức mạnh của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang đánh đổ chế độ thống trị của đế quốc và phong kiến, xây dựng chính quyền cách mạng của nhân dân. 

Nghị quyết Trung ương 15, đưa đến cuộc Đồng khởivĩ đại, đánh dấu bước ngoặt lớn của cách mạng miền Nam, một thành công điển hình về phương pháp tiến hành cách mạng bạo lực. Đó là sự chỉ đạo khởi đầu chiến tranh cách mạng ở miền Nam một cách độc đáo; đấu tranh chính trị của quần chúng kết hợp vũ trang tự vệ và khởi nghĩa giành chính quyền ở cơ sở nông thôn. Sự khởi đầu đó phù hợp đối sánh lực lượng ta - địch, phù hợp nguyện vọng của đông đảo quần chúng, thời điểm phù hợp với thời cơ lịch sử, được thế giới đồng tình ủng hộ; tạo thế, tạo lực cho phong trào đi lên mạnh mẽ trong những bước tiếp theo. Tuy nhiên, “trước đó Đảng có khuyết điểm về chỉ đạo cách mạng miền Nam, đặc biệt trong hai năm 1957 - 1958, ta có sai lầm trong chỉ đạo chiến lược; chậm chỉ đạo chuyển hướng đấu tranh chính trị khi địch đã dùng bạo lực phản cách mạng thẳng tay giết hại cán bộ, nhân dân”(6). Việc chậm xác định con đường cách mạng miền Nam thể hiện ở chỗ tình hình đã chuyển biến lớn nhưng Đảng nhận thức không kịp thời, chưa kịp chuẩn bị về đường lối và tổ chức. Nguyên nhân khách quan là do Đảng lãnh đạo thực hiện 2 chiến lược cách mạng diễn ra đồng thời ở hai miền là việc mới mẻ. Trong xây dựng miền Bắc, mắc sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Đảng chưa có thời gian tích luỹ kinh nghiệm, tìm hiểu bản chất kẻ thù. Liên Xô và Trung Quốc có quan điểm khác, không phù hợp tình hình, điều kiện Việt Nam.

2. Chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968

Tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ áp dụng những chiến lược, chiến thuật mới nhất theo lý thuyết “leo thang chiến tranh”, tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh quân sự. Khi thất bại trong “Chiến tranh đặc biệt”, Tổng thống Johnson đã quyết định leo nấc thang cao nhất: “Chiến tranh cục bộ”, nhằm “tìm lấy một thắng lợi về quân sự” bằng cách sử dụng lực lượng quân sự khổng lồ với những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất lúc bấy giờ (trừ vũ khí hạt nhân). Khi đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ” đầu năm 1965, một loạt vấn đề mới đặt ra phải giải quyết: cục diện chiến tranh sẽ phát triển như thế nào? Tính chất, mục đích, hình thức chiến tranh có gì thay đổi? Ta có thể đánh thắng đế quốc Mỹ không? Ta quyết thắng và thắng như thế nào? Đường lối, phương châm, quyết tâm có gì thay đổi?

Hội nghị Trung ương 12 (12-1965) phân tích sâu sắc tình hình trong nước, quốc tế, những thuận lợi cũng như khó khăn thách thức, nhất trí xác định ta có thể hạn chế và thắng địch trên chiến trường miền Nam; giữ vững và quán triệt phương châm đánh địch bằng cả quân sự và chính trị. Về quân sự, Đảng không chủ trương phải tiêu diệt toàn bộ quân Mỹ, màchủ trương làm thất bại chính sách xâm lược, đè bẹp ý chí xâm lược, buộc đối phương phải chịu thua với những điều kiện nhất định, cuối cùng phải rút khỏi miền Nam.

Hội nghị Trung ương 12 hạ quyết tâm: “...kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, kiên quyết chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng”(7), thể hiện tư tưởng chiến lược tiến công, ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trước thử thách sống còn của vận mệnh dân tộc.

 Phương châm chiến lược được Trung ương xác định là chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình là chính.Nhưng đánh lâu dài không có nghĩa là đánh kéo dài. Phương hướng chỉ đạo chiến lược phải nỗ lực phấn đấu giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn, bỏ lỡ thời cơ là sai lầm. Chuẩn bị mọi điều kiện vật chất và tinh thần, đồng thời chỉ đạo các chiến trường tạo thế mới, lực mới, tiến dần từng bước tới cuộc tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.

Năm 1967,  Bộ Chính trị đã nghiên cứu, xây dựng kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968 với điểm cốt lõi: giành thắng lợi quyết định không phải “bằng cách đánh thông thường mà phải tìm cách đánh khác để đập tan ý chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ hiểu rằng không thể thắng được dân tộc Việt Nam bằng vũ khí và bom đạn”(8).

Hội nghị Trung ương 14 (1-1968) thông qua Nghị quyết của Bộ Chính trị, thực hiện Tổng công kích - Tổng khởi nghĩađể giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là Quyết định chiến lược sáng tạo, táo bạo.

Cuộc Tổng tiến công diễn ra trong tình hình địch đã leo thang chiến tranh đến đỉnh cao, trong khi Tướng Oétmolen đang chuẩn bị đợt tiến công thứ ba sau hai mùa khô, đang khẩn trương cứu nguy cho căn cứ Khe Sanh, 2/5 lực lượng chiến đấu Mỹ đã bị vây hãm và đối phó với một cuộc nghi binh của ta ở đường 9(9). Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968(10) đã đánh thẳng vào ý chí của giới cầm quyền Mỹ, làm đảo lộn thế chiến lược của quân Mỹ, làm rung chuyển nước Mỹ.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải “xuống thang” chiến tranh từ bậc thang cao nhất, phải chuyển từ chiến lược tiến công (tìm - diệt) sang chiến lược phòng ngự, phải hạn chế ném bom rồi ngừng hẳn việc ném bom miền Bắc và ngồi vào bàn hội đàm Pari với ta. Ta có điều kiện triển khai mặt trận tiến công mới là ngoại giao, mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”. Như thực tế đã chứng tỏ, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã tạo bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tuy vậy, mục tiêu  “nổi dậy” khởi nghĩa ở các địa phương không đạt. Thực tế đã không diễn ra tổng khởi nghĩa như kế hoạch dự kiến(11). Khuyết điểm của ta là chậm chuyển hướng chiến lược về nông thôn nên bị tổn thất nặng nề. Thế và lực suy giảm ở cả ba vùng chiến lược, tình hình kéo dài cả năm 1969 đến năm 1970. Cần khẳng định không nên nhầm lẫn giữa chủ trương và thắng lợi của những đợt tiến công đầu năm 1968 với những tổn thất, khó khăn sau đó, do ta chủ quan, không thấy hết được những âm mưu, thủ đoạn của địch, không kịp thời chuyển hướng về địa bàn nông thôn. Nhìn lại diễn biến và kết quả của đợt 2 và đợt 3, “chúng ta đã mắc một số khuyết điểm, chủ quan trong việc đánh giá tình hình cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó, nhất là sau đợt Tổng tiến công Tết Mậu Thân, ta đã không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm ngay để đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời; chậm thấy cố gắng mới của địch và những khó khăn lúc đó của ta, cho nên đã gặp khó khăn trong một thời gian. Mặc dù có những khuyết điểm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968 vẫn giữ một vị trí to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ”(12).

3. Tiến công chiến lược năm 1972, ký kết Hiệp định Pari (1-1973)

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, năm 1972 có vị trí đặc biệt quan trọng, tạo ra bước ngoặt lớn của chiến tranh với những thắng lợi có tính quyết định trên cả hai miền Nam Bắc, cả đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao. Quân đội Việt Nam cộng hòa, xương sống của kế hoạch “Việt Nam hoá chiến tranh”, bị thua nặng trên các chiến trường, đã giảm sút về số lượng, sa sút  tinh thần chiến đấu, lại phải thay thế cho 30 vạn quân Mỹ. Chương trình “bình định” của địch bị chững lại và bị đẩy lùi trên một số khu vực. Mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung lực lượng của địch càng trở nên sâu sắc.

Thế đứng chân của bộ đội chủ lực ta ở vùng đồng bằng bước đầu được khôi phục. Trên chiến trường Campuchia và Lào, thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh, giành được quyền chủ động về chiến lược. Vùng căn cứ rộng lớn nối liền từ hậu phương lớn miền Bắc Việt Nam đến các chiến trường ba nước Đông Dương không ngừng củng cố và phát triển, tạo thế tiến công vững chắc cho cuộc kháng chiến của ba nước.

Chấp hành Nghị quyết 20 của Trung ương Đảng và quán triệt sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, dựa trên thực tiễn phát triển của cách mạng miền Nam, ngày 11-3-1972, Thường vụ Quân uỷ Trung ương ra Nghị quyết về kế hoạch mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.

Ngày 30-3-1972, cuộc tiến công chiến lược của Quân Giải phóng miền Nam bắt đầu bằng ba chiến dịch tiến công ở đường 9 - Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, kết hợp với các chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long và Khu 5, giáng một đòn mạnh vào quân đội và chế độ Việt Nam cộng hòa. Đến tháng 10-1972, cuộc tiến công chiến lược của quân và dân ta kết thúc, giành được những thắng lợi to lớn(13). Cuộc tiến công và nổi dậy mạnh, dài ngày, rộng khắp của quân và dân ta đã làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh. Thắng lợi của Cuộc tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam năm 1972, cùng với thắng lợi đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, đặc biệt nổi bật là chiến công đập tan cuộc tập kích đường không chiến lược những ngày cuối năm 1972 là hai thắng lợi chiến lược thúc đẩy và hòa nhịp với thắng lợi trên mặt trận ngoại giao, làm thất bại về cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Đế quốc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán, ký văn bản Hiệp định, thừa nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cam kết chấm dứt dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam, tạo bước ngoặt về thế và lực có lợi cho cách mạng nước ta.

4. Nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh

Hiệp định Pari được ký kết (1-1973), trước tình hình quốc tế rất phức tạp, Đảng kịp thời xác định đúng con đường tiến lên của cách mạng miền Nam, đẩy mạnh phát triển lực lượng, nhạy bén phát hiện thời cơ, hạ quyết tâm chiến lược kịp thời, chính xác giải phóng miền Nam. Hội nghị Trung ương 21 đã rút ra những kinh nghiệm chủ yếu cho cách mạng miền Nam; đề ra chủ trương, biện pháp cơ bản để đưa cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam tiến lên giai đoạn mới - giai đoạn cuối cùng của sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau Hội nghị Trung ương 21, các cơ quan chiến lược tập trung giúp Quân ủy Trung ương chuẩn bị chủ trương và những giải pháp lớn về quân sự mà trọng tâm là xây dựng Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Trong một năm (từ tháng 4-1973 đến tháng 5-1974), kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam được soạn thảo, điều chỉnh, bổ sung nhiều lần. Đó là cả một quá trình nắm bắt kịp thời diễn biến chiến trường, tình hình trong nước và trên thế giới; là quá trình bàn bạc, cân nhắc, chọn lựa các giải pháp giữa cơ quan chỉ đạo chiến lược với lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường. Trong suốt quá trình đó, nhiều vấn đề lớn đặt ra yêu cầu được phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện: Làm thế nào để tạo được thời cơ? Cần làm gì để chớp thời cơ không được để lỡ? Hướng chiến lược là đâu? Đánh như thế nào để tiêu diệt được chiến đoàn và sư đoàn quân ngụy? Khả năng can thiệp của Mỹ nếu ta đánh lớn?(14)... Sau nhiều cuộc trao đổi, thảo luận, bản dự thảo kế hoạch chiến lược với tên gọi Kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam sau vài ba năm làm thay đổi so sánh lực lượng ở miền Nam, mang số 133/TG1, hoàn thành vào ngày 16-5-1974.

Theo dõi sát sao tình hình chiến trường, Bộ Chính trị tiếp tục ra những quyết định quan trọng về giải phóng miền Nam. Tháng 9-1974, Bộ Chính trị hạ quyết tâm hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam trong hai năm (1975 - 1976)(15) với kế hoạch chiến lược gồm hai bước(16). Đây là “một quyết định rất dũng cảm, có thể nói là táo bạo... là kết quả của trí tuệ tập thể của Bộ Chính trị, là kết quả của những suy nghĩ đã nung nấu từ lâu, của sự cân nhắc chín chắn xuất phát từ kinh nghiệm được tích lũy qua mấy mươi năm chiến đấu, xuất phát từ thực tiễn cách mạng trên chiến trường, từ lực lượng so sánh trong nước và trên thế giới”(17).

Sau chiến thắng Phước Long - chiến thắng có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu bước suy sụp mới của quân đội Sài Gòn, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước trong hai năm 1975, 1976. Bộ Chính trị dự kiến phương án nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh lập tức triển khai kế hoạch chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược năm 1975. Bám sát diễn biến và dự đoán chính xác tình hình chiến trường, ngày 18-3-1975 Bộ Chính trị quyết định giải phóng miền Nam trong năm 1975. Tiếp đó, ngày 25-3-1975 Bộ Chính trị  quyết định giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975 và ngay sau đó Bộ Chính trị quyết định giải phóng miền Nam trong tháng 4 -1975. Những quyết định đó được ban hành dựa trên thế tiến công vũ bão và thắng lợi dồn dập từ sau chiến thắng Buôn Ma Thuột (10-3-1975), chiến dịch Tây Nguyên, Trị Thiên và Khu V, giải phóng ven biển miền Trung. Quân đội Sài Gòn hỗn loạn, tan rã từng mảng và lâm vào thế thất bại hoàn toàn không thể cứu vãn. Ngày 26-4-1975, Quân đội ta tiến vào Sài Gòn - Gia Định và giành thắng lợi vào trưa  ngày 30-4-1975.  Ngày 1-5-1975, toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long và các hải đảo (trừ Hoàng Sa) được giải phóng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 21 năm của nhân dân Việt Nam toàn thắng.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả hợp thành của những nhân tố cơ bản tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, trong đó, đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn. Quá trình Đảng đề ra và thực hiện đường lối chiến lược, phương thức tiến hành chiến tranh trong từng giai đoạn của cuộc kháng chiến đều xuất phát từ mục tiêu chiến lược nhất quán là vì nền độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trên cơ sở lường định đúng chuyển biến của tình hình, đánh giá đúng âm mưu của đối phương cũng như đánh giá đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch, Đảng ta đã đề ra đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo để lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân, toàn quân trên cả hai miền trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

_________________

Bài đưng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2015

(1) Xứ ủy Nam Bộ: Báo cáo tình hình tổ chức và tư tưởng của Đảng bộ Nam Bộ từ hòa bình lập lại đến nay,10-1961, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, tr.3.

(2), (3) Miền Đông Nam Bộ kháng chiến 1945-1975, tập II,Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993, tr.17, 17.

(4)Lịch sử Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.303.

(5) Hội nghị họp 2 đợt tại Hà Nội, đợt 1 từ ngày 12 đến 22-1-1959, đợt 2 từ ngày 10 đến 15-7-1959.

(6) Kết luận của Bộ Chính trị về Dự thảo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ,số 215 - BBK/BTC, ngày 6-5-1994.

(7) ĐCSVN: Văn kiện Đảng, Toàn tập, t.26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.635.

(8) Lịch sử quân sự Việt Nam, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2005, tr.205-207.

(9) Giữa năm 1966, Quân ủy Trung ương quyết định mở mặt trận mới: đường số 9 - Bắc Quảng Trị, mục đích là tạo mặt trận rừng núi mới hút chủ lực địch. Mỹ phải đưa 2 trong 7 sư đoàn lên chiến trường này - có thể hạn chế tối đa chỗ mạnh quân Mỹ, nhưng lại phát huy tối đa sở trường đánh rừng núi của chủ lực ta. Mở mặt trận đường số 9 phá vỡ ý định đưa quân vào đồng bằng sông Cửu Long, phá kế hoạch mở rộng chiến tranh ra Quân Khu 4.

(10) Công tác chuẩn bị cho cuộc tiến công được tiến hành khẩn trương, bí mật. Đúng đêm giao thừa Tết Mậu Thân (đêm 29 rạng ngày 30-1-1968), ta đồng loạt tiến công và nổi dậy trên toàn miền. Trong đợt tiến công này, ta làm nên những trận gây chấn động lớn như đánh Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng Tham mưu ngụy, 25 ngày làm chủ thành phố Huế. Mỹ tổn thất gần gấp 2 lần tổng số thương vong những năm trước cộng lại (30.610 người). Từ ngày 10 đến 17-2, 543 lính Mỹ bỏ mạng, là tuần thương vong cao nhất. Trên chiến trường, lần đầu tiên ta đưa chiến tranh vào hàng loạt hậu cứ của địch - nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trong nhiều tuần nhiều tháng, làm thương vong nặng nề cả quân số và phương tiện chiến tranh cho địch.

(11) Trong các nghị quyết của Trung ương Đảng đều chủ trương Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, nhưng trên thực tế diễn ra là Tổng tiến công và nổi dậy như Đại hội IV của Đảng kết luận.

(12) Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 (tháng 7-1973). Xem thêm Kết luận của Bộ Chính trị họp ngày 23-4-1994, số 215-BBK/BCT.

(13) Ta đã tiêu diệt và làm tan rã một lực lượng rất lớn sinh lực địch, khoảng trên 30 vạn tên, 50% tổng số sư đoàn, 65% tổng số trung đoàn bộ binh, 34% tổng số tiểu đoàn pháo binh, 45% tổng số trung đoàn thiết giáp bị tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng, 40% tổng số trung đội dân vệ và đại đội bảo an bị tiêu diệt và tan rã. Ta diệt và bức hàng, bức rút khoảng 2.200 đồn bốt trong tổng số hơn 9.000 đồn bốt địch.

(14) Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.109.

(15), (17) Sđd:Văn kiện Đảng Toàn tập, t.35, tr.185, 235.

(16) Bước 1 (1975): Tranh thủ yếu tố bất ngờ, tập trung lực lượng, phương tiện, vũ khí đánh địch trên phạm vi lớn toàn miền Nam; Bước 2 (1976): Thực hiện Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

 

PGS, TS Trịnh Thị Hồng Hạnh

Viện Lịch sử Đảng,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền