Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Lãnh đạo quản lý từ góc độ xã hội học sáng tạo
Thứ hai, 19 Tháng 9 2016 15:27
5049 Lượt xem

Lãnh đạo quản lý từ góc độ xã hội học sáng tạo

(LLCT) - Xã hội học sáng tạo là chuyên ngành xã hội học chuyên nghiên cứu mối quan hệ của sáng tạo với con người và xã hội nhằm phát hiện ra các quy luật, cơ chế và các điều kiện hình thành, vận động, biến đổi các mối quan hệ này.

1. Từ Tâm lý học sáng tạo đến Xã hội học sáng tạo

Sáng tạo và các yếu tố ảnh hưởng

Có thể tìm thấy ít nhất ba cách tiếp cận từ góc độ tâm lý học và xã hội học vi mô về bản chất của sáng tạo trong đó nhấn mạnh quá trình sáng tạo, dòng sáng tạo và giải quyết vấn đề sáng tạo như sau(4): Thứ nhất, theo Wallas (1926) sáng tạo là một quá trình bao gồm các bước lần lượt là: chuẩn bị, ấp ủ, thấu hiểu (lóa sáng) và đánh giá, cụ thể hóa. Thứ hai, theo Csikszentmithalyi, sáng tạo là dòng ý thức xuất phát từ sự say mê, hứng thú và ý nghĩa của chính hoạt động sáng tạo dẫn đến kết quả là sáng tạo ra cái mới, phát hiện ra cái mới. Thứ ba, cách tiếp cận giải quyết vấn đề sáng tạo đưa ra một số mô hình như mô hình lý thuyết chức năng trí tuệ sáng tạo với năm thao tác trí tuệ là nhận thức, trí nhớ, tư duy hội tụ, tư duy phân kỳ và đánh giá. Trong đó tư duy hội tụ (nhằm đưa ra một câu trả lời đúng) và tư duy phân kỳ (đưa ra nhiều câu trả lời đúng) là cơ bản và quan trọng nhất đối với tư duy sáng tạo trong giải quyết vấn đề sáng tạo. Một mô hình khác nhấn mạnh yếu tố tư duy chiều ngang, loại tư duy theo diện rộng, mang tính khơi gợi, ngẫu nhiên, nhảy cóc, xác suất thấp trong quá trình giải quyết vấn đề sáng tạo. Mô hình các yếu tố của quá trình giải quyết vấn đề sáng tạo cho biết những yếu tố chính là xác định vấn đề, trình bày vấn đề, lập kế hoạch giải quyết và đánh giá việc giải quyết vấn đề.

Một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra 11 đặc điểm nhân cách sáng tạo là(5): tri thức chuyên sâu về một lĩnh vực, tính cởi mở với tình huống không xác định, trí tưởng tượng tự do, tự do chức năng, tính linh hoạt và mềm dẻo, ưa mạo hiểm, cởi mở với sự thiếu trật tự, trì hoãn hưởng thụ, giải phóng khỏi vai giới, tính kiên trì, lòng dũng cảm. Xét một cách tổng quát người sáng tạo là người có: nhân cách sáng tạo, động cơ sáng tạo, trí thông minh sáng tạo, tư duy sáng tạo, tưởng tượng sáng tạo và hoạt động sáng tạo.

Một số tác giả chuyên sâu về lãnh đạo học thường nhấn mạnh đặc trưng sáng tạo của lãnh đạo để phân biệt với quản lý với giả định là quản lý không có tính sáng tạo. Song từ thực tế có thể thấy rằng cả lãnh đạo và quản lý đều có tính sáng tạo do yêu cầu khách quan từ nền kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo và xã hội sáng tạo chứ không đơn giản là do phẩm chất, năng lực, kỹ năng tư duy sáng tạo của cá nhân.

Sự hình thành và phát triển xã hội học sáng tạo

Từ những điều trình bày trên đặt ra vấn đề xem xét “quản lý” và “lãnh đạo” từ góc độ xã hội học về đổi mới, sáng tạo (Sociology of inovation, creativity) gọi ngắn gọn là Xã hội học sáng tạo. Có thể định nghĩa ngắn gọn: xã hội học sáng tạo là chuyên ngành xã hội học chuyên nghiên cứu mối quan hệ của sáng tạo với con người và xã hội nhằm phát hiện ra các quy luật, cơ chế và các điều kiện hình thành, vận động, biến đổi các mối quan hệ này.

Theo quan điểm của C.Mác, con người sáng tạo ra xã hội như thế nào thì cũng sáng tạo ra chính bản thân con người như vậy. Vấn đề nghiên cứu đặt ra là “sáng tạo như thế nào?”, ví dụ, lãnh đạo quản lý sáng tạo có nghĩa là như thế nào? Sự lãnh đạo quản lý sáng tạo phụ thuộc vào những yếu tố nào và như thế nào? Một trong số các nhà xã hội học đương đại góp phần phát triển chuyên ngành xã hội học sáng tạo là Richard Florida, tác giả của cuốn sách Sự xuất hiện của giai tầng sáng tạo (The rise of creative class)(6) năm 2002. Florida đã làm rõ sự phát triển giai tầng sáng tạo ở Hoa Kỳ trong thế kỷ XX: từ năm 1900 đến năm 1999 giai tầng sáng tạo đã tăng gấp ba lần và chiếm 30% lực lượng lao động của Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ XXI. Florida đã nghiên cứu một số chủ đề và đưa ra một số khái niệm cơ bản của chuyên ngành xã hội học đổi mới, sáng tạo, ví dụ như: giai tầng sáng tạo (creative class), tinh thần sáng tạo (creative ethos), nền kinh tế sáng tạo (creative economy), quản lý sự sáng tạo (managing creativity), vốn sáng tạo (creative capital) và cộng đồng sáng tạo (creative community). Như vậy là, trong các loại vốn phi vật thể (cùng với vốn văn hóa, vốn xã hội, vốn con người, vốn biểu tượng), con người có thêm một loại vốn nữa là sáng tạo.

Từ góc độ xã hội học sáng tạo cần tìm hiểu những nội dung cơ bản như năng lực sáng tạo của nhà lãnh đạo, quản lý; mô hình lãnh đạo, quản lý sáng tạo và nhất là các yêu cầu đặt ra từ phía nền kinh tế sáng tạo, xã hội sáng tạo, cộng đồng sáng tạo, giai tầng sáng tạo và các yếu tố sáng tạo khác đối với lãnh đạo, quản lý.

Có thể thấy, tương ứng với nền kinh tế bao cấp, xã hội bao cấp là lãnh đạo bao cấp, quản lý bao cấp. Tương ứng với nền kinh tế thị trường, xã hội thị trường là lãnh đạo thị trường, quản lý thị trường. Tương tự, nền kinh tế sáng tạo, xã hội sáng tạo đòi hỏi lãnh đạo sáng tạo, quản lý sáng tạo. Điều này đã và đang diễn ra ở các nước công nghiệp phát triển, nơi xuất hiện nền kinh tế hậu công nghiệp, nền kinh tế tri thức, nền kinh tế sáng tạo và cả “chủ nghĩa tư bản sáng tạo”. Khác với chủ nghĩa tư bản cũ, chủ nghĩa tư bản sáng tạo được nuôi dưỡng bởi “tinh thần sáng tạo”, “tinh thần duy mỹ”(7) (the aesthetic spirit) tức là tinh thần sáng tạo ra những cái mới, đẹp và dựa vào quá trình cải tiến không ngừng, sáng tạo liên tục để phát triển các kỹ thuật mới, công nghệ mới, sản phẩm mới và thị trường mới và nhờ vậy đổi mới, sáng tạo cả hệ các giá trị, các động cơ thúc đẩy hành vi, hoạt động của con người.

Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ tiến đến mục tiêu “xã hội xã hội chủ nghĩa” nên tất yếu nền kinh tế cũng quá độ với các thành phần, các yếu tố đan xen phức tạp với nhau của kinh tế bao cấp, kinh tế thị trường và cả những yếu tố của nền kinh tế sáng tạo xuất hiện, giao lưu, tiếp biến trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Lãnh đạo, quản lý cần phải có tầm nhìn sáng tạo, có sứ mệnh sáng tạo nhằm mục tiêu phát triển bền vững trong bối cảnh của sự phát triển các nền kinh tế sáng tạo trên thế giới mà không ít các yếu tố của chúng đang xuất hiện ở Việt Nam.

Trên thế giới, một cuộc phỏng vấn một nghìn giám đốc điều hành cấp cao tại 12 nước khác nhau năm 2011 cho biết: 95% người được phỏng vấn tin rằng đổi mới là đòn bẩy cho một nền kinh tế quốc gia cạnh tranh hơn và 88% cho rằng đổi mới là cách thức tốt nhất để tạo công ăn việc làm tại các quốc gia của họ(9). Ở Việt Nam, một khảo sát nhanh trong tháng 6-2015 của tác giả bài viết này với hơn một trăm cán bộ lãnh đạo, quản lý hầu hết cho rằng công việc của người lãnh đạo, quản lý đều đòi hỏi phải đổi mới, sáng tạo. Bình quân, cán bộ lãnh đạo quản lý cần phải đổi mới, sáng tạo khoảng 30% nội dung và hình thức công việc được giao.

2. Mạng sáng tạo: một cách tiếp cận sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý ở thế kỷ XXI

Mạng sáng tạo trong quản lý

Khái niệm “mạng sáng tạo” được một số nhà nghiên cứu hàng đầu về quản lý đưa ra vào đầu thế kỷ XXI. Từ phân tích những biến đổi có tính cách mạng trong việc giảm chi phí giao dịch, chi phí vận chuyển và tăng khả năng trao đổi thông tin của các doanh nghiệp trên cơ sở các tiến bộ khoa học và công nghệ thông tin, David Conklin và Lawrence Tapp cho rằng sự thành công của các doanh nghiệp trong thế kỷ XXI phụ thuộc chủ yếu vào sự phát triển mạng sáng tạo(10).

Trước kia mạng quản lý và mạng sản xuất dù được mở rộng nhưng chủ yếu hoạt động theo nguyên tắc một chiều từ người cung cấp đến người sản xuất, người vận chuyển và người tiêu dùng mặc dù có tính đến mối liên hệ ngược, thông tin phản hồi và tương tác. Ngày nay, nhờ các thành tựu trong vận tải, thông tin nên mạng quản lý và mạng sản xuất đã trở thành mạng sáng tạo dựa trên nguyên tắc đa chiều cạnh, đa phương, đa cấp và trực tiếp, trực tuyến giữa các bên tham gia mạng lưới. Ưu thế của mạng sáng tạo không chỉ là ở việc giảm thời gian phát triển sản xuất và giảm chi phí giao dịch mà còn ở việc tăng cơ hội, điều kiện và năng lực đổi mới, sáng tạo liên tục của các bên và toàn bộ mạng, chỉ ra sáu thuộc tính cơ bản như sau: (1) Sự đổi mới và cải tiến liên tục: Mục tiêu của mạng là làm tăng giá trị gia tăng bên trong nhóm nhờ vào việc sáng tạo ra các hàng hóa, dịch vụ mới và các phương pháp giảm chi phí và nâng cao hiệu quả. (2) Tính linh hoạt trong phân tích: mạng có khả năng thay đổi linh hoạt các cách giải quyết vấn đề và nhằm vào một trong các mục đích là tạo ra sự thay đổi liên tục, linh hoạt. (3) Liên tục hợp tác vì mục tiêu đổi mới: các bên tham gia mạng đều cùng chung mục tiêu này. (4) Mạng trung tâm trong mạng sáng tạo: không phải một người ra quyết định mà là một mạng ra quyết định và thực hiện việc phối hợp hoạt động của toàn mạng sáng tạo. (5) Sự lệ thuộc liên tục và lâu dài của các bên tham gia mạng sáng tạo. (6) Mối quan hệ đa phương, nhiều hướng của mạng sáng tạo.

Mạng cũ không sáng tạo có thể có đầu vào - đầu ra, điểm đầu và điểm cuối, nhưng mạng sáng tạo không phân biệt như vậy mà mỗi một đầu mối của mạng đều vừa là đầu vào vừa là đầu ra, vừa cung cấp vừa sản xuất và vừa tiêu dùng, đều cùng lúc thực hiện “nghiên cứu, phát triển và tiếp thị” (Research & Development & Marketing, R&D&M) chứ không phải nghiên cứu rồi mới triển khai hoặc nghiên cứu và triển khai rồi mới tiếp thị.

Có thể thấy sự phát triển mạng sáng tạo trong thực tiễn quản lý, đó là việc các tổ chức “trao quyền cho người lao động” và xây dựng “chu trình chất lượng” với quan niệm “chất lượng” là quá trình tạo ra chất lượng, trong đó tất cả các bên tham gia đều có trách nhiệm và đóng góp cho thành công chung. Hay là sự hình thành các mạng sáng tạo giữa các công ty xuyên quốc gia: các công ty thành viên của mạng xuyên quốc gia đều tham gia vào quá trình sáng tạo ra các hàng hóa, dịch vụ mới phù hợp với điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể ở mỗi quốc gia.

Một số vấn đề mới trong quản lý với mạng sáng tạo

David Conklin và Lawrence Tapp đã chỉ ra một số vấn đề mới đặt ra từ mạng sáng tạo đối với quản lý:

Vấn đề ra quyết định tham gia mạng sáng tạo. Quyết định quản lý cần phải trả lời câu hỏi về việc có tham gia hay không và như thế nào vào một hay nhiều mạng sáng tạo. Quyết định này cần phải tính đến sự cam kết cung cấp nguồn lực và thực hiện R&D&M cho cả mạng lưới. Lãnh đạo, quản lý cũng phải ra quyết định chấp nhận hay không chấp nhận một cá nhân hay tổ chức tham gia vào mạng sáng tạo.

Vấn đề niềm tin vào mạng sáng tạo. Theo cách quản lý thứ bậc, niềm tin chủ yếu là sự tin tưởng vào cam kết thực hiện lời hứa của đối tác, tức là có tin tưởng mới có tổ chức và hợp tác. Trong quản lý mạng sáng tạo, niềm tin là sự tin tưởng vào khả năng thành công của các thành viên trong mạng, tức là có tổ chức, hợp tác mới có niềm tin. Với “niềm tin” này, các tác giả của khái niệm “mạng sáng tạo” dự báo rằng, hình thức tổ chức mạng sáng tạo sẽ trở nên phổ biến trong thế kỷ XXI vì hình thức này hứa hẹn sự thành công nhiều hơn các hình thức tổ chức truyền thống kiểu phân cấp như tổ chức nhiệm sở(11) của Max Weber, tổ chức lực tác động của Micheal Porter và tổ chức mạng giá trị(12) của Brandenburger và Nalebuff.

Vấn đề sự thành công của mỗi thành viên được đánh giá như thế nào trong mạng. Điều này liên quan đến quan hệ tài chính, các khuyến khích, cách đánh giá và cách đền bù cho các kết quả hoạt động của các bên tham gia mạng sáng tạo.

Vấn đề việc thành lập mạng trong mạng. Một thành viên bất kỳ của mạng có thể thành lập mạng riêng của mình và không giống với mạng chung, điều này đặt ra vấn đề là làm thế nào các thành viên của mạng đều tham gia vào thành công chung của cả mạng và thành công của mỗi thành viên.

Cùng với bốn vấn đề trên, một vấn đề nữa là sự biến đổi cấu trúc tổ chức dưới tác động của mạng sáng tạo. Khi chưa tham gia vào mạng sáng tạo, cấu trúc tổ chức phổ biến là cấu trúc tổ chức hình tháp trong đó mọi quyết định được đưa từ trên xuống, trên cơ sở tổng hợp các ý kiến từ dưới lên và khi quyết định từ trên đưa xuống thì cấp dưới phải phục tùng. Đây là biểu hiện của nguyên tắc tổ chức “tập trung dân chủ” hay “dân chủ tập trung”. Mạng sáng tạo đòi hỏi phải thay đổi cấu trúc tổ chức nhằm tinh giản bộ máy.

Tổ chức cần được thiết kế và vận hành sao cho luôn luôn có thể tìm kiếm các cách làm mới, tạo ra sản phẩm mới, dịch vụ mới, đồng thời giảm được chi phí và trực tiếp đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng. Mối tương tác trực tiếp của tầng đáy trong tháp tổ chức trước kia nay chiếm vị thế như của tầng đỉnh trong việc ra quyết định đối với cả hệ thống bởi vì họ trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và các đối tác để nắm bắt các tín hiệu buộc toàn bộ mạng sáng tạo phải xử lý, phân tích và tìm cách đáp ứng một cách phù hợp. Các tổ chức quy mô nhỏ tham gia các mạng sáng tạo tỏ ra có ưu thế và năng lực đổi mới, sáng tạo hơn nhiều các tổ chức quy mô lớn kiểu hình tháp. Muốn thành công thì phải tham gia mạng sáng tạo và do vậy cấu trúc tổ chức cũng phải thay đổi cho phù hợp với các yêu cầu đặt ra từ mạng sáng tạo. Đồng thời, lãnh đạo, quản lý cũng phải trở thành “lãnh đạo, quản lý sáng tạo” đối với sự đổi mới, sáng tạo của nền kinh tế sáng tạo, xã hội sáng tạo.

Ở Việt Nam hiện nay đã phát triển chuyên ngành “Tâm lý học sáng tạo”(13) được giảng dạy trong chương trình đào tạo ngành tâm lý học trong trường đại học. Tương tự, hoàn toàn có thể và cần thiết phải phát triển chuyên ngành “Xã hội học sáng tạo”, “Xã hội học đổi mới, sáng tạo” để cung cấp cách tiếp cận xã hội làm sáng tỏ các yếu tố xã hội, các khía cạnh xã hội và cơ chế xã hội của đổi mới, sáng tạo. Nghiên cứu và đào tạo có tính sáng tạo thì mới có thể phát hiện ra cái mới, tạo ra cái mới và phát triển cái mới tức là “cái sáng tạo” ở người học. Thực tiễn công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội đất nước ta thời gian qua tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển bộ môn Xã hội học sáng tạo về lãnh đạo, quản lý nhằm góp phần tiếp tục sự nghiệp đổi mới nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

_______________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 11-2015

(1) Harold Koontz, Cyril Odonnell Heinz Weihrich: Những vấn đề cốt yếu của quản lý, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1994. 

(2) Koontz và các đồng sự coi “lãnh đạo” là một trong sáu chức năng của quản lý gồm lập kế hoạch, xây dựng tổ chức, xác định biên chế, lãnh đạo được hiểu là sự tác động đến con người để sao cho họ sẵn sàng cố gắng hăng hái tiến tới đạt các mục tiêu của nhóm và của tổ chức, kiểm tra và phối hợp. Harold Koontz, Cyril Odonnell Heinz Weihrich, Sđd, tr.48 -53.

(3) Richard L. Hughes, Robert C. Ginnett, Gordon J. Curphy: Năng lực sáng tạo, McGrawHill Education,  Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2009, tr.21 và 56.

(4), (5), (13)Theo Phạm Thành Nghị: Giáo trình Tâm lý học sáng tạo, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2012, tr.17, 227-224, 28.

(6) Richard Florida: The rise of creative class, Basic Books, New York, 2002.

(7) Peter Murphy and Eduardo de la Fuente (eds.): Aesthetic Capitalism, Koninklijke Brill, Leiden, The Netherlands, 2014.

(8) Tại Diễn đàn kinh tế thế giới vào tháng 1-2008 tại Davos, Thụy Sỹ, tỷ phú Bill Gates đưa ra ý tưởng về “chủ nghĩa tư bản sáng tạo” (creative capitalism).

(9) Tony Wagner: Khai sinh nhà đổi mới, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2014, tr.17.

(10), (12) David Conklin và Lawrence Tapp. “Mạng sáng tạo” trong Subir Chowdhury (chủ biên), Quản lý trong thế kỷ XXI, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội, 2006, tr.315-334, 318-319.

(11) Ba mô hình tổ chức:

Mô hình tổ chức nhiệm sở (bureaucratic organization, theo cách dịch cũ là tổ chức quan liêu), một số đặc trưng cơ bản nhất của tổ chức nhiệm sở là trật tự thứ bậc của quyền lực, sự duy lý trong quản lý và quan hệ chức năng trong tổ chức. 

Mô hình tổ chức của lực tác động: cấu trúc tổ chức của một doanh nghiệp hay một ngành kinh tế luôn chịu tác động của năm lực là: sự ganh đua của các đối thủ cạnh tranh; mối đe dọa của các bên tham gia mới vào cuộc chơi; mối đe dọa của các thay thế (sản phẩm, dịch vụ); quyền thương lượng của các nhà cung cấp; quyền thương lượng của người mua.

Mô hình tổ chức trò chơi: Theo cách tiếp cận lý thuyết trò chơi, các tác giả Brandenburger và Nalebuff cho rằng các doanh nghiệp có thể tăng giá trị gia tăng cho sản xuất kinh doanh bằng hợp tác hơn là cạnh tranh. Do vậy, cấu trúc tổ chức của doanh nghiệp cần tính đến các bộ phận (PARTS) của trò chơi gồm: các bên tham gia trò chơi; các giá trị gia tăng; các quy tắc; các chiến thuật - các nhận thức; phạm vi trò chơi. Nguồn: David Conklin và Lawrence Tapp, Sđd.

 

GS,TS Lê Ngọc Hùng

Viện Xã hội học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền