Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Chiều cạnh giới trong thể chế, chính sách đối với nữ trí thức hiện nay
Thứ hai, 19 Tháng 9 2016 15:40
1936 Lượt xem

Chiều cạnh giới trong thể chế, chính sách đối với nữ trí thức hiện nay

(LLCT) - Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng phát triển đội ngũ trí thức, trong đó có nữ trí thức. Nữ trí thức được đề cập trong bài viết gồm các nhà khoa học nữ có trình độ từ cao đẳng và đại học trở lên hoạt động trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học công nghệ, y tế, giáo dục và đào tạo, văn học nghệ thuật, lãnh đạo và quản lý.

1. Quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam đối với nữ trí thức nhìn từ chiều cạnh giới

Mục tiêu bình đẳng giới đã trở thành đường lối nhất quán, Đảng ta chỉ rõ: “xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(1). Đồng thời Trung ương Đảng đã đề ra một số chỉ tiêu cần phấn đấu đến năm 2020: cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%. Ở các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ.

Chủ trương của Đảng về công tác nữ và nữ trí thức đã được thể chế hóa bằng các văn bản pháp quy, pháp luật, chính sách của Nhà nước đã tạo cơ chế và hành lang pháp lý cho sự phát triển của phụ nữ, trong đó có nữ trí thức và thúc đẩy bình đẳng giới.

Hiến pháp 1992, Điều 63 quy định: “Công dân nam nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình... Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội”. Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Như vậy, bình đẳng giới không chỉ là mục tiêu mà còn là điều kiện cho phụ nữ phát triển toàn diện và phát huy tài năng trí tuệ cống hiến cho sự phát triển chung của đất nước, của dân tộc. Đối với nữ trí thức - lao động trong môi trường bình đẳng giới được bảo đảm sẽ là niềm vui, niềm hạnh phúc, là sự động viên, cổ vũ lớn lao để họ không ngừng sáng tạo và cống hiến.

Để đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, một số bộ luật có quan điểm giới đã được ban hành, như: Luật hôn nhân và gia đình, Luật Lao động, Luật Dân sự, Luật Bình đẳng giới (2007) và Luật Phòng chống bạo lực gia đình (2008). Đặc biệt Luật Bình đẳng giới đã khẳng định: “1. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ. 2. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận các khóa đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế”.

Các văn bản pháp lý của Nhà nước Việt Nam cho thấy có những điểm mới và tiến bộ trong nỗ lực thực hiện bình đẳng giới như:

i) Có sự chuyển đổi cách tiếp cận từ quan điểm phụ nữ trong phát triển sang cách tiếp cận giới và phát triển;

ii) Chương trình quốc gia về bình đẳng giới đã đưa ra các chỉ tiêu khá rõ và có thể lượng hóa, đồng thời cung cấp một số cơ sở dữ liệu so sánh xem đó như là những căn cứ nhằm hỗ trợ giám sát quá trình thực hiện bình đẳng giới, bao gồm giám sát quá trình bảo đảm quyền tham chính của phụ nữ. Đây là những bước tiến quan trọng trong nỗ lực thực hiện bình đẳng giới và bảo đảm quyền tham gia trong lĩnh vực chính trị của phụ nữ Việt Nam.

iii) Một số Bộ luật, Nghị định(2) đã đưa ra các chế tài xử phạt khi vi phạm các quy định pháp luật về bình đẳng giới, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới.  

Hiện nay có Phó Chủ tịch nước là nữ giáo sư, tiến sỹ. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khoá XII chưa đạt so với chỉ tiêu đề ra nhưng có trình độ học vấn cao hơn so với các khóa trước. Cụ thể có 91,34% đại biểu nữ có trình độ đại học trở lên (khóa XI có 88,98%), trong đó trên đại học là: 32,28%, đại học là: 59,06% và chỉ có 8,66% đại biểu nữ có trình độ dưới đại học của khóa XI(3). Những quy định về pháp lý và các chính sách của Nhà nước trên vấn đề này đã làm thay đổi cơ cấu giới trong đội ngũ trí thức. Hiện nay đội ngũ nữ trí thức Việt Nam đã phát triển khá nhanh về số lượng và có mặt trên hầu hết các lĩnh vực khoa học của nước nhà, đồng thời có nhiều đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước trên mọi lĩnh vực, từ đó vị thế, vai trò của nữ trí thức đã được xã hội thừa nhận và tôn vinh. Tuy nhiên, so với yêu cầu và tiềm năng của đội ngũ nữ trí thức thì hiện nay số lượng các nhà khoa học nữ tham gia nghiên cứu khoa học và nhất là tham gia lãnh đạo, quản lý ở các cấp còn thấp và càng ở cấp cao tỷ lệ này càng giảm.

2. Những rào cản đối với nữ trí thức nhìn từ góc độ giới

Về thể chế, chính sách

Dưới góc độ này, đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra những bất bình đẳng giới trong thể chế, chính sách đối với nữ trí thức như sau:

Thứ nhất, tuổi nghỉ hưu

Bộ Luật Lao động quy định, tuổi nghỉ hưu của nữ là đủ 55 tuổi; nam là đủ 60 tuổi. 5 năm khác biệt này đã tác động mạnh đến sự nghiệp của phụ nữ nói chung và đặc biệt là nữ trí thức ngay từ khi phụ nữ bắt đầu được tuyển dụng vào các khu vực Nhà nước. Cụ thể là:

- Nữ trí thức có thời gian làm việc trong khu vực Nhà nước ngắn hơn 5 năm so với nam giới, do vậy họ sẽ chịu thiệt thòi do có ít thời gian hơn đồng nghiệp nam để sáng tạo và thăng tiến trong công việc.

- Hiện có sự khác biệt trong quy định về độ tuổi của nam giới và nữ giớiđể được tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực hoặc luân chuyển cán bộ (đây là một tiêu chí để được quy hoạch hoặc bầu cử). Chính sự phân biệt giới này đã dẫn đến những rào cản đối với phụ nữ trên con đường thăng tiến. Điều này buộc phụ nữ phải vừa nỗ lực phấn đấu để được đào tạo và đề bạt trước nam giới 5 năm, vừa phải thực hiện chức năng làm mẹ trong điều kiện không được hưởng chế độ đặc biệt nào.

- Điều luật này cũng buộc nữ trí thức phải về hưu khi đang ở độ tuổi sáng tạo và cống hiến có hiệu quả. Quy định này thực chất đã không quán triệt quan điểm giới khi xác định tuổi nghỉ hưu của nữ trí thức- ở đây không bao gồm tuổi nghỉ hưu của lao động nữ nói chung). Bởi vì, với điều kiện sống đã có nhiều cải thiện hiện nay, khoa học và công nghệ phát triển, ở độ tuổi 55 - 60 đa số nữ trí thức còn đủ sức khỏe, có nhiều thời gian và tâm huyết dành cho nghiên cứu khoa học sáng tạo và tham gia các hoạt động chính trị (do gánh nặng gia đình về cơ bản đã vơi bớt). Hơn nữa, đây là độ tuổi chín muồi, là thời kỳ sáng tạo của nữ trí thức do họ đã có bề dày tích lũy tri thức và kinh nghiệm thực tiễn để sáng tạo. Thậm chí ở độ tuổi này, nhiều nữ trí thức là chuyên gia đầu đàn trong lĩnh vực khoa học mà mình nghiên cứu, giảng dạy. Sự bất bình đẳng giới này đã dẫn đến một sự lãng phí chất xám.

- Với quy định này, thu nhập theo lương và bảo hiểm xã hội của lao động nữ nói chung và của nữ trí thức nói riêng thấp hơn nam giới do phải nghỉ hưu trước 5 năm so với nam giới.

 Thứ hai,nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới chưa được triển khai đầy đủ và kịp thời

- Theo Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW (5-11-2012) của Ban Tổ chức Trung ương Đảng, để được quy hoạch, cán bộ phải đủ tuổi để làm việc thêm 2 nhiệm kỳ (10 năm) hoặc ít nhất là một nhiệm kỳ (5 năm) trước khi nghỉ hưu. Với quy định này, phụ nữ phải nỗ lực phấn đấu để được vào quy hoạch trước 45 tuổi hoặc chậm nhất là 50 tuổi. Để được bổ nhiệm, phụ nữ phải còn đủ tuổi để làm việc thêm 5 năm nữa. Như vậy, các cán bộ, công chức nữ nếu đã ở tuổi 46 thì “đương nhiên” sẽ mất cơ hội để được đưa vào quy hoạch cán bộ và không được bổ nhiệm khi đã ở tuổi 51 (trong khi nam giới còn trong tuổi quy hoạch và bổ nhiệm đến tuổi 55).

Trong khi Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước’’ chỉ rõ: “Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm”(4). Như vậy, những quy định về độ tuổi nghỉ hưu đối với cán bộ công chức đã không bảo đảm nguyên tắc này.

- Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương và ban hành nhiều chính sách lớn về công tác phụ nữ. Tuy nhiên, mức độ cụ thể hóa các văn bản quan trọng này đến từng nhóm đối tượng phụ nữ còn hạn chế, mặc dù đó chính là khâu quan trọng nhất để đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống. Nhiều cơ quan, đơn vị không thực hiện, song vẫn chưa có chế tài xử lý thích hợp. Chính điều này đã góp phần không nhỏ dẫn đến sự hụt hẫng về đội ngũ và làm mờ nhạt vai trò của nữ trí thức trong hoạt động nghiên cứu khoa học và trong công tác lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.

Thứ ba, việc sử dụng nữ trí thức trong các cơ quan nghiên cứu khoa học còn bất hợp lý; việc bố trí cơ cấu trong lựa chọn người ứng cử đang là rào cản hạn chế cơ hội thăng tiến của phụ nữ

- Qua khảo sát ở một số cơ quan nghiên cứu khoa học cho thấy hiện đang tồn tại một tình trạng phổ biến là khi triển khai các công trình khoa học công nghệ các cấp, nhất là cấp nhà nước, cấp bộ, nữ trí thức thường chỉ đóng vai trò là lực lượng tham gia, còn người chủ trì các công trình này chủ yếu là nam trí thức. Điều nghịch lý là trong nhiều trường hợp, trình độ năng lực nghiên cứu khoa học và năng lực sáng tạo của nữ trí thức không thua kém nam trí thức, thậm chí không ít nhà khoa học nữ là chuyên gia trong các lĩnh vực này.

Tình trạng “hội chứng cấp phó” trong các vị trí lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cũng là phổ biến mà nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập.

Nguyên nhân là tư tưởng trọng nam khinh nữ còn chi phối nặng trong xã hội. Điều này dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giữa nam và nữ trong phân công, sử dụng và đánh giá cán bộ dẫn đến việc nâng cao năng lực và trao quyền cho phụ nữ bị hạn chế. Một bộ phận nữ trí thức còn tự ti, chưa chủ động trong việc khẳng định năng lực bản thân.

- Trong lĩnh vực chính trị, sự tham gia của nữ trí thức vào cấp ủy các cấp còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, cơ chế về “cơ cấu” để lựa chọn người ứng cử hiện nay đang là một rào cản đối với nữ trí thức khi tham gia ứng cử vào Quốc hội hay Hội đồng nhân dân các cấp. Thí dụ để bảo đảm sự đa dạng về tính đại diện, cơ chế này quy định sử dụng hệ thống chỉ tiêu đa dạng (gồm nhiều tiêu chí cùng phải thỏa mãn) để lựa chọn đại diện chính trị. Nếu một ứng viên là nữ được lựa chọn thì cùng một lúc họ phải đáp ứng nhiều tiêu chí về tuổi, về trình độ, dân tộc thiểu số và các tiêu chí khác cùng với tiêu chí giới. Điều này làm cho nữ giới gặp nhiều thách thức để được bầu chọn hơn nam giới, thậm chí có thể bị loại do phải tranh cử với ứng viên khác là nam giới chỉ cần đáp ứng 1 tiêu chí. Với cơ chế “cơ cấu” này, rõ ràng nguyên tắc bình đẳng giới không được bảo đảm.

Như vậy, những rào cản về thể chế, chính sách nêu trên đang cản trở cơ hội phát triển của không ít nữ trí thức và chưa phát huy được vị thế và vai trò của họ trong phát triển xã hội.

Rào cản về quan niệm xã hội

Do quan niệm chung về thiên chức của phụ nữ là phục vụ gia đình còn đè nặng; do bệnh gia trưởng còn chi phối mạnh cả trong gia đình và ngoài xã hội, thậm chí rào cản còn gặp phải từ chính sự đố kỵ, níu kéo lẫn nhau của bản thân một bộ phận phụ nữ khiến cho nữ trí thức tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạt động chính trị bị hạn chế rất nhiều cơ hội để thăng tiến, hoặc có thể gặp phải những phản ứng tiêu cực khi họ đảm nhiệm vị trí lãnh đạo.

Một nghiên cứu năm 2013 cho kết quả sau: trong số 2.400 phản hồi qua mạng của những người tham gia khảo sát, chỉ có 50% cho rằng phụ nữ nên theo đuổi những công việc như lãnh đạo chính phủ, chuyên gia kinh tế hoặc doanh nhân. Trong số những phản hồi, số lượng nam giới và nữ giới cho rằng những nghề nghiệp này không phù hợp với nữ là ngang nhau. Cũng theo khảo sát này, nam thanh niên trẻ kỳ vọng người phụ nữ phải đảm đang (66%), chăm chỉ (63%), hy sinh/chịu đựng (33%)(5). Những quan niệm xã hội về vai trò truyền thống của giới in đậm trong xã hội và các thể chế đang là rào cản đối với sự phát triển của phụ nữ nói chung và nữ trí thức nói riêng.

3. Một số đề xuất về chính sách

Để dỡ bỏ những rào cản trong cơ chế, chính sách đối với nữ trí thức,bao gồm cả nữ lãnh đạo, quản lý, cần thực hiện một số nội dung sau:

- Rà soát, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chính sách đối với phụ nữ nói chung và nữ trí thức nói riêng... Xem xét sửa đổi Bộ luật Lao động và các luật liên quan tới các chế độ bảo hiểm xã hội, nghỉ hưu của nữ trí thức và tuổi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý của cán bộ nữ nhằm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong đề bạt và bổ nhiệm (theo tinh thần của Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị khóa X).

- Tiếp tục quán triệt sâu sắc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ nữ và nữ trí thức; nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phát huy vị thế, vai trò của nữ trí thức trong mỗi địa phương, đơn vị. Các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục chỉ đạo và triển khai thực hiện nghiêm Nghị quyết 11.

Thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về phụ nữ và nữ trí thức trên tinh thần bảo đảm bình đẳng giới. Bổ sung các hình thức kỷ luật nghiêm đối với thủ trưởng đơn vị nếu không bảo đảm  chỉ tiêu 30% phụ nữ đảm nhiệm vị trí lãnh đạo cấp vụ và cấp phòng trong các cơ quan nhà nước. Đồng thời, bổ sung những quy định cụ thể về hình thức khen thưởng đối với thủ trưởng, cơ quan thực hiện tốt các chỉ tiêu này.

- Nghiên cứu đề xuất chính sách mới trong đó một người ứng cử không nên gánh quá 2 cơ cấu để bảo đảm tính cạnh tranh bình đẳng.

- Đưa quan điểm giới vào công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ khoa học, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ các cấp gắn với đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng một cách hợp lý đội ngũ nữ trí thức.

- Để khắc phục tận gốc và toàn diện những rào cản đối với nữ trí thức, để tạo môi trường pháp lý và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nữ trí thức cũng như để phát huy hiệu quả vị thế, vai trò của đội ngũ này trong tiến trình phát triển chung của đất nước, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, đề xuất ban hành chính sách đặc thù về xây dựng và phát triển đội ngũ nữ trí thức Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bởi vì, cho đến nay chưa có một văn bản, hay chính sách chuyên biệt nào của Đảng và Nhà nước đề cập riêng về đối tượng này. Văn bản này được ban hành thì những rào cản về thể chế trong chính sách mới có thể được dỡ bỏ và nguyên tắc bình đẳng giới trong phát triển mới được bảo đảm trên thực tế.

_____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 11-2015

(1), (4) Nghị quyết 11-NQ/ TW của Bộ Chính trị“Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, ngày 27-4-2007.

(2) Luật Hình sự, Luật Bình đẳng giới, Nghị định số 34/2011/NĐ-CP; Nghị định số 66/2011/NĐ-CP; Nghị định số 112/2011/NĐ-CP; Nghị định số 27/2012/NĐ-CP.

(3) Nguồn w.w.w hoilhpnvn.org.vn.

(5) UNDP, “Sẵn sàng để thành công” - Tài liệu tập huấn dành cho nữ ứng viên tiềm năng trong kỳ bầu cử năm 2016, tr.13.

 

 

PGS, TS Bùi Thị Ngọc Lan

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền