Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Tiếp tục làm sáng tỏ nhận thức và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Thứ hai, 19 Tháng 9 2016 15:46
5012 Lượt xem

Tiếp tục làm sáng tỏ nhận thức và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

(LLCT) - Bổ sung, phát triển mô hình CNXH ở Việt Nam trên cơ sở bảo đảm các nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học, phù hợp với điều kiện của đất nước và xu hướng phát triển của thế giới đương đại trở thành yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở nắm vững, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, đồng thời bám sát đặc điểm và xu thế vận động của thời đại ngày nay và thực tiễn đất nước, trong quá trình đổi mới từ năm 1986, Đảng ta đã xây dựng nhận thức đúng đắn về CNXH và các đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN ở Việt Nam.

Mục tiêu của công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội (CNXH), với tính cách là cuộc đấu tranh cuối cùng để xóa bỏ mọi chế độ xã hội dựa trên bóc lột lao động, áp bức, bất công hiển nhiên phải là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng lao động và giải phóng con người để mọi người đều được phát triển tự do, toàn diện. Trên thực tế, sự nghiệp xây dựng CNXH được triển khai trên từng “mảnh đất hiện thực” với điều kiện, đặc điểm… rất cụ thể; với những xuất phát điểm và những hoàn cảnh không giống nhau. Bởi vậy, những mục tiêu nêu trên chỉ là những mục tiêu cuối cùng. Chúng phải được cụ thể hóa thành những mục tiêu xác định cho từng quốc gia, trong từng thời kỳ, giai đoạn, bước đi… Chính đây là một trong những vấn đề phức tạp và khó khăn nhất của những người cộng sản trong quá trình lãnh đạo quần chúng cách mạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã có nhiều bằng chứng về các kiểu sai lầm trong việc xác định mục tiêu cụ thể của công cuộc xây dựng CNXH: hoặc là giáo điều, máy móc lấy những mục tiêu cuối cùng làm mục tiêu trước mắt; hoặc tuyệt đối hóa những mục tiêu trước mắt, coi nhẹ, thậm chí thủ tiêu những mục tiêu cuối cùng, thủ tiêu mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân.

Bổ sung, phát triển mô hình CNXH ở Việt Nam trên cơ sở bảo đảm các nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học, phù hợp với điều kiện của đất nước và xu hướng phát triển của thế giới đương đại trở thành yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở nắm vững, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, đồng thời bám sát đặc điểm và xu thế vận động của thời đại ngày nay và thực tiễn đất nước, trong quá trình đổi mới từ năm 1986, Đảng ta đã xây dựng nhận thức đúng đắn về CNXH và các đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN ở Việt Nam.

Tổng kết lý luận và thực tiễn 25 năm đổi mới, Đại hội XI (năm 2011) xác định 8 đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN ở Việt Nam là: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Bên cạnh đó, Đại hội XI nêu 8 phương hướng cấu thành con đường đi lên CNXH ở nước ta: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Đại hội cũng chỉ rõ các mối quan hệ lớn cần nhận thức và giải quyết kịp thời, đúng đắn trong quá trình đổi mới đi lên CNXH: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết của Trung ương khóa XI; đồng thời, nhìn lại toàn bộ quá trình 30 năm đổi mới, Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII tiếp tục bổ sung, làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta:

Một là, trên những vấn đề chung, Dự thảo Báo cáo chính trị khẳng định “qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; khẳng định “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”. Một trong những mối quan hệ lớn cần nhận thức đúng đắn và xử lý tốt trong suốt quá trình phát triển đất nước là mối quan hệ giữa tuân thủ theo các quy luật thị trường và đảm bảo định hướng XHCN. Từ đó, Dự thảo nêu bài học hàng đầu rút ra từ những thành tựu và hạn chế, khuyết điểm của 30 năm đổi mới là: “phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

Hai là, “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa” được nhấn mạnh ngay trong tiêu đề của Dự thảo Báo cáo chính trị; được xác định là một cấu thành của mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới và được cụ thể hóa: “Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”. Đồng thời, “tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” được chú trọng như một trong 12 nhiệm vụ tổng quát trong những năm tới. Lịch sử chính trị thế giới đã chứng minh, không có nhà nước pháp quyền nào thoát ly được bản chất giai cấp và không có nền dân chủ nào chung chung, trừu tượng. Mặt khác, thực tế cho thấy, trên những vấn đề hết sức sống còn này, các thế lực tư bản chủ nghĩa đang ra sức tác động, gây ảnh hưởng, giành giật không gian cho dân chủ và pháp quyền tư sản. Bởi vậy, thường xuyên nhấn mạnh những điều vừa nêu là cần thiết và đúng đắn.

Ba là, tiếp tục khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam, Dự thảo nêu rõ: đó là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Trên vấn đề căn cốt nhất của thể chế kinh tế là vấn đề sở hữu, Dự thảo nêu: “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Về vị thế của Nhà nước và vị trí của người lao động trong thể chế kinh tế, Dự thảo nêu: “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”. Để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như vậy, Dự thảo vạch rõ một trong những nhiệm vụ then chốt là Đảng phải “tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa và việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội”.

Các nội dung bổ sung, phát triển nêu trên đã cụ thể hóa thêm một bước các yếu tố bảo đảm định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường nói riêng và trong phát triển văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… nói chung của đất nước.

Xây dựng, hoàn thiện nhận thức về CNXH và làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH là công việc rất lớn, phải làm từng bước, không được nóng vội, duy ý chí; tuy nhiên, cũng không được chậm trễ so với yêu cầu của thực tiễn. Trong tình hình hiện nay, Dự thảo văn kiện Đại hội XII cần luận chứng sáng rõ hơn nữa một số vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản, trước hết là xung quanh “các quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.

Việc xây dựng các quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp có tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn. Các quan hệ sản xuất chính là cơ sở hạ tầng, trên đó từng chế độ xã hội thiết lập một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Thể chế chính trị, trước hết là nhà nước, có đứng vững được hay không, suy cho cùng là do các quan hệ sản xuất quyết định. Bởi vậy, nhà nước nào cũng phải chăm lo xây dựng, củng cố cơ sở kinh tế của mình. Các cuộc cách mạng, tuy khẳng định chiến thắng ban đầu bằng việc giành lấy chính quyền, nhưng chỉ có thể đi đến thắng lợi cuối cùng sau khi thiết lập xong các quan hệ sản xuất tiến bộ hơn các quan hệ sản xuất mà mình đấu tranh, xóa bỏ. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm, trong đó quan hệ sở hữu chiếm vị trí hàng đầu, chi phối các quan hệ khác. Để thể hiện tầm quan trọng của quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: Trên ý nghĩa nhất định, giai cấp vô sản có thể tóm tắt mục tiêu đấu tranh của mình là: xóa bỏ tư hữu.

Trước kia, chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, xây dựng các quan hệ sản xuất XHCN vượt trước quá xa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn lạc hậu, thấp kém. Từ năm 1986 đến nay, Đảng đã lãnh đạo xây dựng các quan hệ sản xuất một cách đúng đắn, phù hợp và đồng bộ trên cả 3 bình diện. Về mặt sở hữu, Đảng khẳng định trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta có cả công hữu, tư hữu và sở hữu tập thể với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Về mặt tổ chức và quản lý sản xuất, Đảng nhất quán xác định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN “vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo… Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”. Về mặt phân phối, Đảng nêu rõ: cần phân phối công bằng cả các yếu tố sản xuất, các cơ hội, điều kiện phát triển và sản phẩm làm ra; phân phối sản phẩm chủ yếu căn cứ vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác; phân phối thông qua hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

Các quan hệ sản xuất ở nước ta cần phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng; phù hợp với mục tiêu, bản chất của CNXH. Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, từ năm 1930 đến nay nhân dân ta quyết tâm làm sự nghiệp cách mạng vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Mục tiêu, bản chất của CNXH là giải phóng giai cấp, giải phóng lao động và giải phóng con người. Vì những mục tiêu cao cả đó, nhân dân Việt Nam đã không quản hy sinh; nhân dân tiến bộ toàn thế giới cũng sẵn sàng hiến dâng cả máu đào, cùng nhau tạo nên sức mạnh chiến thắng các thế lực thực dân, tư bản, đế quốc hàng đầu, giành lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Bởi vậy, mọi chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và trong tương lai, nhất thiết phải phù hợp với các mục tiêu, bản chất nêu trên. Có như thế, mới tiếp tục tạo động lực thúc đẩy đất nước tiến lên dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Các quan hệ sản xuất ở nước ta hiện nay cần phù hợp với đặc điểm cụ thể của xã hội Việt Nam. Xã hội ta là một xã hội phương Đông với nhiều bản sắc phân biệt so với xã hội phương Tây. Chính vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhiều lần lưu ý về sự tồn tại của một phương thức sản xuất châu Á, bên cạnh 5 phương thức sản xuất phổ biến do các ông khái quát chủ yếu từ tổng kết lịch sử châu Âu. Về mặt sở hữu ruộng đất, rõ ràng châu Á khác nhiều so với châu Âu. Hầu hết ruộng đất ở các xã hội châu Á là công điền; ruộng đất tư chiếm số lượng không đáng kể; không có tích tụ, tập trung ruộng đất với quy mô lớn; không có địa chủ, chúa đất đầy quyền lực... như ở châu Âu. Đặc trưng công hữu này đặt dấu ấn sâu đậm, có sức mạnh vượt thời gian, đến đời sống kinh tế, văn hóa tinh thần Việt Nam.

Quan hệ sản xuất tiến bộ là các quan hệ sản xuất khắc phục được những tính chất lạc hậu, tiêu cực của các quan hệ sản xuất trước kia đã từng tồn tại ở đất nước; phòng tránh, khắc phục được tính chất lạc hậu, tiêu cực của một số quan hệ sản xuất đang tồn tại trên thế giới; chứa đựng ngày càng nhiều giá trị nhân văn, dân chủ, công bằng. Đó là các quan hệ sản xuất đi trước một bước, định hướng phát triển cho các lực lượng sản xuất hiện đại và chủ động bảo đảm cơ sở vật chất - kinh tế cho chế độ xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Các quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp là một khái niệm hay một phạm trù kinh tế chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta? Chúng có nội hàm, tiêu chí cụ thể gì? Dự thảo Báo cáo chính trị có nêu “phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Các quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất - hiển nhiên đây là một trong những quy luật nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nó đều có cuộc sống riêng trên từng mảnh đất hiện thực. Vận dụng quy luật này vào điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, theo chúng tôi, cần xác định đầy đủ hơn: nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các đặc điểm lịch sử - văn hóa dân tộc và mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Chỉ trong chừng mực phải phù hợp với đầy đủ những tiêu chí vừa nêu, nền kinh tế nước ta mới không trở thành mảnh đất cho các quan hệ sản xuất TBCN chiếm vai trò, vị trí chủ đạo; chuỗi sản xuất - kinh doanh và các nguồn lực quốc gia mới thật sự do nhân dân làm chủ; mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH mới có đầy đủ cơ sở vật chất để duy trì, củng cố, phát triển.

_______________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 11-2015 

PGS,TS Nguyễn Viết Thảo

Phó Giám đốc

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền