Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong một số lý thuyết về kinh tế
Thứ tư, 28 Tháng 9 2016 10:52
14068 Lượt xem

Mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong một số lý thuyết về kinh tế

(LLCT) - Lịch sử kinh tế thế giới đương đại đã cho thấy, mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào cũng được giới khoa học chính trị, quản lý kinh tế quan tâm nghiên cứu và tìm cách giải quyết. Điều này được phản ánh trong ba lý thuyết về kinh tế sau đây:

 

1. Lý thuyết về tự do kinh tế

Lý thuyết này chủ trương đề cao vai trò của thị trường, ủng hộ tự do kinh tế và hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp của nhà nước, thậm chí nguồn gốc của lý thuyết này là Lý thuyết kinh tế học cổ điển còn nhấn mạnh: nhà nước không can thiệp vào kinh tế. Lý thuyết kinh tế học cổ điển ra đời từ nửa cuối thế kỷ XVIII và trở thành trường phái thống trị cho tới đầu thế kỷ XX với các đại biểu chính: A.Smith, J.B.Say, T.R.Malthus, J.S.Mill, D.Ricardo; trong đó tiêu biểu là A.Smith (1723-1790) với thuyết “Bàn tay vô hình”.

Xuất phát từ nhân tố “con người kinh tế” theo chủ nghĩa cá nhân, A.Smith cho rằng con người bị chi phối bởi lợi ích cá nhân và trong khi chạy theo lợi ích đó, con người đã bị một “bàn tay vô hình” buộc phải thực hiện thêm nhiệm vụ đáp ứng lợi ích của xã hội. Trong đó, lợi ích cá nhân là lợi ích xuất phát, lợi ích của xã hội là lợi ích phụ thuộc, giữa chúng không có mâu thuẫn với nhau và lợi ích của xã hội sẽ được phát triển trong quá trình lợi ích cá nhân được thỏa mãn. “Bàn tay vô hình”, theo ông, là các quy luật kinh tế khách quan hoạt động tự phát, tự điều tiết trên thị trường, chi phối hành động của con người và điều kiện cần thiết để cho chúng hoạt động là nền kinh tế phải phát triển trên cơ sở tự do. Tự do kinh tế sẽ làm cho những lợi ích riêng, nguyện vọng riêng của người ta tự nhiên hơn và do đó sẽ buộc họ phải phân chia tư bản trong xã hội bằng cách nào đó cho các công việc khác nhau để có thể thống nhất với lợi ích của toàn xã hội. Từ đó, ông cho rằng, sự phát triển kinh tế bình thường không cần có sự can thiệp của nhà nước và nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, nhà nước chỉ cần thực hiện tốt các chức năng quản lý cơ bản là xây dựng thể chế pháp luật để giữ gìn trật tự kinh tế, bảo vệ quyền sở hữu tư bản và bảo vệ an ninh, trật tự xã hội, bảo vệ đất nước trước kẻ thù xâm lược. Ông chủ trương tự do kinh doanh, rất tin tưởng ở thị trường và đưa ra nguyên lý “nhà nước không can thiệp”. Tuy nhiên, theo ông, nhà nước đôi khi cũng có chức năng kiến tạo kết cấu hạ tầng, từ đó có nhiệm vụ kinh tế quan trọng như xây dựng cầu cống, đường sá,... mà bản thân các doanh nghiệp, nhà đầu tư tư nhân không đủ sức làm.

D.Ricardo (1772-1823) cho rằng nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, đặc biệt là hoạt động của thị trường lao động và giúp đỡ người nghèo vì làm như vậy là ngăn cản hoạt động của quy luật tự nhiên. Tuy ông đề cao vai trò của tự do thương mại giữa các nước, nhất là tự do nhập khẩu và phủ nhận khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản nhưng ông cũng phải thừa nhận vai trò, chức năng quản lý của nhà nước thông qua việc điều tiết nền kinh tế bằng chính sách thuế.

J.B.Say (1766-1832) thì nhấn mạnh về một nhà nước bảo đảm các chức năng đặc quyền (quân đội; tư pháp, cảnh sát giữ gìn trật tự kinh tế thông qua việc xây dựng và thực thi pháp luật về kinh tế) và tránh mọi sự can thiệp vào kinh tế nhằm bảo vệ chế độ tự do mậu dịch. Ông chống lại chính sách bảo hộ bằng thuế quan của nhà nước, vì ông cho rằng nếu để tự do lưu thông hàng hóa sẽ không có khủng hoảng kinh tế. Đặc biệt, ông không tán thành tạo lập các doanh nghiệp nhà nước mà chủ trương tư nhân hóa những doanh nghiệp đã quốc hữu hóa, nhưng cũng giống như A.Smith, ông đề cao vai trò và chức năng quản lý của nhà nước trong việc tạo môi trường thuận lợi cho sự làm giàu, nhất là việc nhà nước đứng ra thực hiện xây dựng đường sá, cầu cống, kênh đào, cảng biển.

Đến đầu thế kỷ XX, lý thuyết cổ điển mới ra đời với những người sáng lập là L.Walras, B.Clark, A.Marschall, A.Pigou và những đại biểu này vẫn chủ trương tự do kinh tế, nhưng trong nội dung lý thuyết của họ đã có ít nhiều sắc thái về tư tưởng nhà nước can thiệp vào kinh tế. Thuyết “Cân bằng tổng quát” của L.Walras (1834-1910) phản ánh sự phát triển tư tưởng “bàn tay vô hình” của A.Smith về tư tưởng tự do kinh tế, nhưng ở đây ông cũng đề cập đến việc nhà nước thực hiện chức năng quản lý để can thiệp vào kinh tế nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm bảo đảm ổn định giá, hạn chế đầu cơ, đưa ra giá hàng phù hợp với các yếu tố đầu vào cũng như tiền lương của người lao động. B.Clark (1847-1938) lại cho rằng nhà nước nên có vai trò và chức năng tích cực trong việc thay đổi cơ cấu kinh tế, mở rộng sản xuất thông qua việc xây dựng luật chống độc quyền, duy trì cạnh tranh tự do, tác động tới sự trả lương hợp lý. Với A.Marschall (1842-1924), vai trò, chức năng quản lý kinh tế của nhà nước được thể hiện trong định hướng ngành, cơ cấu ngành thông qua việc loại bỏ hay khuyến khích một ngành sản xuất bằng cách đánh thuế cao để loại chúng ra khỏi nền kinh tế hay trợ cấp để chúng phát triển nhanh, mang lại hiệu quả cho nền kinh tế. Còn theo A.Pigou (1877-1959), đối với kinh tế, nhà nước nên can thiệp thông qua vai trò, chức năng quản lý của mình để có ưu tiên cho những quyết định mang tính quyền lợi chung và nhà nước phải tiến hành điều chỉnh nền kinh tế một cách thích hợp từ sản xuất cho tới phân phối sản phẩm.

Cũng dựa trên tư tưởng tự do kinh tế của lý thuyết kinh tế học cổ điển, các lý thuyết của chủ nghĩa tự do mới về kinh tế chủ yếu ra đời sau Chiến tranh thế giới  thứ II như: lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội với đại biểu là Muller, Armack; lý thuyết trọng tiền với các đại diện chính là M.Friedman, H.Simons; lý thuyết trọng cung hiện đại với các đại biểu là A.Laffer, N.Ture;... Nội dung chính của chúng là ủng hộ cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước nhưng ở mức độ rất hạn hẹp, với khẩu hiệu: cần thị trường nhiều hơn và nhà nước can thiệp ít hơn. Tuy vậy, suy đến cùng các lý thuyết này cũng thừa nhận rằng vai trò, chức năng quản lý kinh tế của nhà nước là quan trọng và không thể thiếu được. Theo lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội, trong nền kinh tế thị trường đề cao sự cạnh tranh có hiệu quả, cần phải có một nhà nước mạnh để hỗ trợ, ổn định và tương hợp với thị trường thông qua chức năng xây dựng và thực thi pháp luật và chính sách kinh tế. Tương tự, lý thuyết trọng tiền cho rằng các chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn của nhà nước, nhất là chính sách tiền tệ ổn định, có hiệu quả dựa trên việc kiểm soát sự cung ứng tiền tệ kết hợp với chính sách thuế kiềm chế lạm phát, nhằm các mục tiêu tăng trưởng dài hạn chắc chắn sẽ đưa đến sự tăng trưởng kinh tế ổn định của một quốc gia. Cũng giống như lý thuyết trọng tiền, lý thuyết trọng cung hiện đại đề cập đến vai trò và chức năng của nhà nước trong việc đề ra chính sách thuế đồng bộ gắn liền với chính sách tiền tệ hợp lý để giải quyết những vấn đề kinh tế dài hạn. Ngoài ra, lý thuyết trọng cung hiện đại còn cho thấy sự tác động thông qua chức năng quản lý của nhà nước vào các yếu tố cung dài hạn như vốn, chất lượng và số lượng lao động, khoa học - công nghệ sẽ đưa đến một nền kinh tế ổn định và tăng trưởng.

2. Lý thuyết kinh tế có điều tiết

Đây là lý thuyết điển hình về nền kinh tế có sự can thiệp mạnh của nhà nước do J.M.Keynes (1884-1946) đề ra. Theo đó, ông phê phán kịch liệt chính sách tự do kinh tế của chủ nghĩa bảo thủ dựa trên thuyết “bàn tay vô hình” của A.Smith, thuyết “cân bằng tổng quát” của L.Walras và cho rằng chúng không thể bảo đảm cho nền kinh tế phát triển lành mạnh. Qua đây, ông khẳng định vai trò to lớn của nhà nước trong nền kinh tế và nhấn mạnh thị trường không thể khắc phục được khủng hoảng kinh tế cũng như giải quyết được nạn thất nghiệp, nhất là trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất. Vai trò, chức năng quản lý kinh tế đó của nhà nước, theo ông, được thể hiện tập trung ở việc điều chỉnh tổng cầu. Ông đưa ra khái niệm “tổng cầu hữu hiệu” được cấu thành bởi cầu tiêu dùng và cầu đầu tư. Cầu tiêu dùng phụ thuộc vào thu nhập và tiết kiệm còn cầu đầu tư lại phụ thuộc vào những dự báo của các nhà kinh doanh về tiêu dùng trong xã hội. Theo ông, để khắc phục những mâu thuẫn trong quá trình tái sản xuất, đảm bảo cho sự cân bằng kinh tế và ngăn chặn các cuộc khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp xảy ra, thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết mà chủ nghĩa tư bản phải có sự giúp sức của “bàn tay nhà nước”, còn gọi là “bàn tay hữu hình”, trong vai trò, chức năng quản lý kinh tế thông qua việc sử dụng ngân sách nhà nước để kích thích đầu tư tư nhân và bản thân nhà nước cần chủ động đầu tư. Ông cho rằng nhà nước cần can thiệp mạnh vào kinh tế, bằng cách: tăng thêm những đơn đặt hàng đối với các doanh nghiệp trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng, sản xuất hàng tiêu dùng,... và ông coi đây là biện pháp chủ động để tăng cầu về tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, sức lao động cũng như tăng số lượng việc làm; sử dụng ngân sách nhà nước để bảo đảm hiệu quả ở mức có lợi cho các doanh nghiệp, giúp họ yên tâm đầu tư và áp dụng những biện pháp như giảm lãi suất, giảm thuế, thực hiện tín dụng ưu đãi với các doanh nghiệp nhằm khuyến khích đầu tư; thực hiện “lạm phát có mức độ”, còn gọi là “lạm phát lành mạnh”, để kích thích thị trường thông qua việc in thêm tiền giấy và tăng thêm số lượng tiền tệ vào lĩnh vực lưu thông; dùng các biện pháp nhằm tăng thu cho ngân sách như phát hành công trái nhà nước, tăng thuế để điều tiết kinh tế. Trong lý thuyết đề cao vai trò nhà nước can thiệp vào kinh tế của mình, J.M.Keynes đặc biệt nhấn mạnh đầu tư nhà nước có quy mô lớn để sử dụng tư bản nhàn rỗi, lao động thất nghiệp cũng như các chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ, thuế và ông coi đây là những công cụ kinh tế vĩ mô rất quan trọng của nhà nước để điều tiết có hiệu quả nền kinh tế.

Trong một thời gian dài, lý thuyết của J.M.Keynes đã giữ vị trí thống trị và được vận dụng ở hầu hết các nước tư bản phát triển. Dựa trên cơ sở lý thuyết của ông, trường phái Keynes mới đã ra đời và phát triển với những xu hướng vận dụng mới. Cũng đề cao vai trò, chức năng quản lý kinh tế của nhà nước, nhưng trường phái Keynes mới ở Pháp coi trọng công cụ kế hoạch của nhà nước trong việc điều chỉnh kinh tế, bảo đảm nhịp độ kinh tế phát triển thích hợp và dễ dàng thay đổi được cơ cấu nền kinh tế quốc dân khi có nhu cầu đặt ra. Họ cho rằng kế hoạch hóa là việc nhà nước điều chỉnh tổng hợp các hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế và là kế hoạch hóa mang tính chỉ dẫn chứ không phải là kế hoạch hóa mệnh lệnh mang tính pháp lệnh tập trung quan liêu. Trong khi đó, ở Mỹ, trường phái này lại đề cao chính sách tài chính của nhà nước, đánh giá cao vai trò của chi phí nhà nước, coi ngân sách nhà nước là công cụ chủ yếu để can thiệp vào kinh tế và tích cực ủng hộ việc nhà nước sử dụng các phương tiện như đơn đặt hàng lớn, hệ thống mua để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Đặc biệt, họ nhấn mạnh vai trò, chức năng quản lý kinh tế của nhà nước trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế được thể hiện qua việc nhà nước tăng chi phí để bù đắp cho sự giảm sút của chi phí tư nhân.

Sau đó một số lý thuyết hiện đại khác đã xuất hiện như lý thuyết thể chế, lý thuyết điều tiết và chúng cũng tán thành với tư tưởng lý thuyết của J.M.Keynes là nhà nước can thiệp vào kinh tế, nhưng là can thiệp một cách thích hợp, có mức độ.

Lý thuyết điều tiết, xuất hiện lần đầu tiên ở Pháp vào những năm 1970, cho rằng nhà nước không đơn giản là công cụ thống trị giai cấp mà cơ bản là hệ thống những thỏa hiệp nhằm đạt được sự đồng thuận xã hội và được thể chế hóa dưới hình thức luật. Theo lý thuyết này, một cách thức chủ yếu mà nhà nước quản lý và tác động đến nền kinh tế là pháp luật và các quy tắc do nhà nước đề ra; nhưng mặt khác, nhà nước cần can thiệp thích hợp, gián tiếp thông qua việc định ra đường lối phát triển, khung pháp luật cũng như tạo môi trường, thể chế cho các cá nhân, doanh nghiệp đi đúng hướng chứ nhà nước không làm thay thị trường.

Lý thuyết thể chế, xuất hiện ở Mỹ và phát triển mạnh vào những năm 1960, chủ trương nhà nước can thiệp vào kinh tế với những chức năng điều tiết lớn như: nhà nước điều tiết và làm trọng tài giải quyết mâu thuẫn giữa lao động và tư bản; điều tiết để cho các doanh nghiệp lớn thích ứng với đòi hỏi của tiến bộ khoa học và đầu tư quy mô lớn nhằm mục đích kế hoạch hóa công nghiệp nhưng có tăng cường địa vị của các thành phần kinh tế thị trường.

3. Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp  

Quan điểm về nền kinh tế hỗn hợp đã có từ cuối thế kỷ XIX và được P.A.Samuelson nâng lên thành tư tưởng chủ yếu trong “kinh tế học” của mình với chủ trương muốn phát triển kinh tế phải dựa vào cả “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” là thị trường và nhà nước. Ông nhấn mạnh, để điều hành một nền kinh tế mà không có nhà nước hoặc không có thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay.

Theo ông, đặc điểm kinh tế cơ bản cần nắm vững để giúp nền kinh tế tăng trưởng và phát triển lành mạnh là thị trường cần được kiểm soát thông qua sự chỉ huy vô hình của các quy luật kinh tế thị trường, còn nhà nước nên có chức năng quản lý kinh tế là kiểm soát thị trường bằng các mệnh lệnh điều tiết, các kích thích tài chính. Ông đã chỉ ra lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động của người kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và kinh tế thị trường phải được hoạt động trong môi trường cạnh tranh do các quy luật khách quan chi phối, nhưng bản thân kinh tế thị trường đôi khi cũng thất bại, bất lực do những nguyên nhân như: tình trạng độc quyền; những tác động từ bên ngoài như ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, chất thải và chất phóng xạ gây nguy hiểm; lạm phát và thất nghiệp; phân phối thu nhập không công bằng,... Do đó, để khắc phục khuyết tật của kinh tế thị trường cần phải có bàn tay quản lý của nhà nước.

Vai trò, chức năng quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là thiết lập khuôn khổ pháp luật, thúc đẩy thị trường hoạt động có hiệu quả, đảm bảo sự công bằng và ổn định kinh tế vĩ mô.

Ở đây, ông đặc biệt đề cao nhà nước trong vai trò, chức năng là đề ra pháp luật và điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, nhất là các luật chống độc quyền, luật kinh tế để nâng cao tính cạnh tranh, ngăn chặn những tác động tiêu cực từ bên ngoài, đảm bảo cho thị trường hoạt động có hiệu quả.

Nhà nước cần can thiệp vào kinh tế, chủ yếu bằng pháp luật, để hạn chế độc quyền và những tác động bên ngoài, giúp thị trường tiến tới có đủ sức cạnh tranh hoàn hảo. Mặt khác, nhà nước phải thực hiện chức năng đảm nhiệm sản xuất hàng hóa công cộng có ý nghĩa quan trọng đối với quốc gia nhưng tư nhân thường không muốn sản xuất, vì không có lợi nhuận hoặc chậm thu được lợi nhuận.

Thực hiện chức năng đảm bảo sự công bằng, theo ông, nhà nước cần phải có những chính sách phân phối lại thu nhập, đặc biệt là chính sách thuế, để tạo ra sự công bằng trong xã hội, bởi vì sự phân hóa giàu nghèo, không công bằng, bất bình đẳng được sinh ra từ thị trường là một tất yếu. Những chính sách mà nhà nước thường sử dụng là: thuế lũy tiến áp dụng cho thuế thu nhập và thuế thừa kế, hệ thống hỗ trợ thu nhập giúp người không có khả năng lao động, bảo hiểm thất nghiệp cho người không có việc làm, trợ cấp tiêu dùng cho nhóm người có thu nhập thấp,...

Về chức năng ổn định kinh tế vĩ mô, ông đánh giá cao sự đóng góp trí tuệ của J.M.Keynes trong việc phân tích, chỉ ra cách sử dụng đúng đắn quyền lực về tài chính (đánh thuế và chi tiêu) và quyền lực về tiền tệ (điều tiết về tiền tệ và hệ thống ngân hàng để xác định mức lãi suất và điều kiện tín dụng) của nhà nước có thể ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ổn định của nền kinh tế thông qua ổn định sản lượng hàng hóa, giá cả, việc làm và lạm phát. 

Trong lý thuyết của P.A.Samuelson về thất nghiệp và lạm phát, bàn tay quản lý kinh tế của nhà nước cũng được thể hiện rất rõ qua các biện pháp: cải thiện dịch vụ thị trường lao động, đào tạo, bồi dưỡng tay nghề cho người lao động, tạo ra nhiều việc làm công cộng, kiểm soát tiền lương, kiểm soát giá cả, sử dụng quy luật của thị trường và chính sách kinh tế mềm dẻo để hạn chế tăng giá nhằm giữ cho lạm phát ở mức vừa phải. Còn trong lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế, hàm ý của ông về vai trò, chức năng của nhà nước ở các nước đang phát triển có ý nghĩa rất lớn. Chính nhà nước là người phối hợp các ưu thế của quốc gia cũng như khắc phục hạn chế của nó về tài nguyên thiên nhiên, con người, vốn, kỹ thuật, công nghệ để tổng hợp thành những véc-tơ cùng chiều tạo nên sức mạnh kinh tế thông qua các chính sách như mở cửa, tạo lập và thúc đẩy thị trường xuất khẩu phát triển nhanh, xây dựng nền công nghiệp có hiệu quả kinh tế theo quy mô lớn.

Với Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp được trình bày trong “Kinh tế học”, P.A.Samuelson đã nêu lên tính cần thiết của cả thị trường và nhà nước trong sự phát triển kinh tế. Thị trường xác định và trả lời cụ thể những câu hỏi: sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai. Trong khi đó, nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế là điều tiết thị trường bằng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là bằng pháp luật.

Tuy còn nhiều tranh luận về mối quan hệ nhà nước và thị trường (thị trường nhiều hay ít, nhà nước can thiệp ít hay nhiều), cả ba lý thuyết về kinh tế nêu trên đều thừa nhận vai trò, chức năng quản lý kinh tế không thể thiếu được của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, cho dù chỉ là tối thiểu.

Ở nước ta, nhận thức và thực tiễn cho thấy, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường còn chưa rõ ràng, nhất là việc cụ thể hóa vai trò của Nhà nước, vai trò của thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016) đã chỉ rõ: “Cần nghiên cứu làm sáng tỏ hơn mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Xác định rõ vai trò của Nhà nước, vai trò của thị trường,...”. Chỉ khi nào việc phân vai giữa Nhà nước và thị trường được làm rõ và được quy định bởi pháp luật bằng các chức năng, nhiệm vụ cụ thể, thì khi đó mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường mới là biện chứng, tương hợp và hỗ trợ cho nhau.

______________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2015

Tài liệu tham khảo:

(1) Mai Ngọc Cường (Chủ biên): Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Thống Kê, Hà Nội, 1996.

(2) Chu Văn Cấp (Chủ biên): Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

(3) Chu Đức Dũng: Vai trò quản lý của nhà nước trong phát triển kinh tế - Kinh nghiệm Pháp, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.

 

ThS Nguyễn Hồng Sơn

Hội đồng Lý luận Trung ương

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền