Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế
Thứ sáu, 25 Tháng 11 2016 17:08
11987 Lượt xem

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế

(LLCT) - Hồ Chí Minh khẳng định giải phóng giai cấp - giải phóng dân tộc có mối quan hệ biện chứng; giải phóng dân tộc bao hàm giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội; cần kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc với lợi ích quốc tế. Vận dụng tư tưởng của Người, Đại hội XII của Đảng khẳng định rõ bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Để kết hợp hài hòa và giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc - giai cấp - quốc tế trong bối cảnh hiện nay, hoạt động đối ngoại cần nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, giữ vững nguyên tắc, đồng thời sáng tạo, linh hoạt.

1. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp

Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc Việt Nam và tính nhân loại. Mọi sự nhấn mạnh một chiều nhân tố nào đó (yếu tố giai cấp hoặc yếu tố dân tộc) đều dẫn tới sai lầm, phiến diện; mọi sự tách rời hoặc đối lập giữa các yếu tố hợp thành tư tưởng Hồ Chí Minh (đối lập tính giai cấp công nhân với tính dân tộc, đối lập độc lập dân tộc với CNXH...) đều dẫn tới sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn.

Giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp vô sản có mối quan hệ biện chứng. Trong nội dung giải phóng dân tộc bao hàm nội dung giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Sự nghiệp giải phóng dân tộc càng tiến hành triệt để và thắng lợi bao nhiêu thì sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng xã hội càng thuận lợi bấy nhiêu. Giai cấp vô sản được hoàn toàn giải phóng cả về chính trị và kinh tế thì độc lập sẽ vững bền. Luận cương của Đảng năm 1930 đã xác định, cách mạng Việt Nam “đi tới xã hội cộng sản” là một định hướng đúng đắn, phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với CNXH làm cho quan điểm Hồ Chí Minh mang tính toàn diện, triệt để. Dưới góc độ giải phóng, độc lập dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên. Giải phóng về mặt chính trị tự bản thân nó chưa phải là công cuộc giải phóng hoàn toàn, độc lập dân tộc là tiền đề đầu tiên để tiến lên CNXH, đưa con người đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Thực tế những sai lầm và thất bại của các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu; những khó khăn của Việt Nam từ sau 1975 đã chứng minh tầm quan trọng của việc kết hợp giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, cũng như việc lựa chọn con đường và bước đi phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể của từng nước.

Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu trong thế kỷ XXI. Song, việc xử lý mối quan hệ giữa các dân tộc, giai cấp và nhân loại đang trở thành một vấn đề mang tính chiến lược lâu dài đối với mỗi quốc gia - dân tộc. Đối với Việt Nam, để giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc và xây dựng đất nước đi lên CNXH đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa các nhân tố dân tộc, giai cấp, nhân loại trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... trong quá trình hội nhập quốc tế. Muốn vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần kiên định nguyên tắc thống nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đường lối nhất quán và xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và CNXH. Do vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp và quốc tế được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng sáng tạo vào các giai đoạn cách mạng của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh việc vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam phải hết sức sáng tạo, phải tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Khi chủ nghĩa dân tộc thắng lợi dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân sẽ thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản và chủ nghĩa quốc tế XHCN của giai cấp công nhân.

Đường lối cách mạng của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta từ năm1930 đến nay đã rất coi trọng việc bồi dưỡng tinh thần dân tộc, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bất công, giải phóng dân tộc, thực hiện quyền tự quyết dân tộc theo lập trường giai cấp công nhân. Qua các giai đoạn cách mạng, đường lối cách mạng Việt Nam xuyên suốt và nhất quán: Độc lập dân tộc và CNXH, cụ thể hóa bằng chính sách dân tộc trên 3 nguyên tắc: bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển.

Để bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới, trong tất cả các văn kiện của Đảng luôn khẳng định mục tiêu cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và CNXH, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều kiện cơ bản bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và cũng có nghĩa là trung thành với lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và lợi ích dân tộc. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong đổi mới ở Việt Nam được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Đó chính là sự quán triệt và vận dụng quan điểm lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết quan hệ dân tộc và giai cấp trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải giải quyết một cách toàn diện ở nhiều lĩnh vực. Trong đó, trước hết tập trung giải quyết các quan hệ lợi ích:  Lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích toàn dân tộc; Lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích các giai cấp, tầng lớp khác; Lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích các tộc người trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam; Lợi ích của dân tộc Việt Nam với lợi ích các dân tộc khác và lợi ích quốc tế  nói chung trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Dưới đây là một số quan điểm của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết quan hệ dân tộc - giai cấp và quốc tế trong điều kiện mới.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm gắn độc lập dân tộc với CNXH là tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Mặt khác, thể hiện những quan điểm cụ thể trong giải quyết quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội Việt Nam:  “Các giai  cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh. Phát triển giai cấp công nhân về số lượng và chất lượng để xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Trong Cương lĩnh, vấn đề quan hệ các dân tộc (tộc người) được khẳng định: Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau càng tiến bộ(1).

Đại hội VIII của Đảng đã rút ra 6 bài học chủ yếu của 10 năm đổi mới. Trong đó, bài học đầu tiên là “giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(2).

Cùng với bài học đã nêu là bài học về mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Quan điểm mới về phát huy sức mạnh toàn dân gắn với phát huy sức mạnh của toàn dân tộc: tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những thành tựu to lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng, phát huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc.

Đặc biệt, Đại hội IX đã đưa ra luận điểm mang tầm khái quát lý luận về quan hệ giai cấp, lợi ích giai cấp và lợi ích giai cấp dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam: mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Đại hội X của Đảng (2006) tiếp tục nêu những quan điểm mới trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ngay trong quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.

Đảng ta chỉ rõ phương hướng và mục tiêu tổng quát của công tác xây dựng Đảng là: “tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân”. Làm được như vậy là Đảng ta đã thực hiện được ý nguyện trong Di chúccủa Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc... phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(3).

2. Kết hợp hài hòa giữa lợi ích dân tộc với lợi ích quốc tế

Đại hội IX đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy và đường lối đối ngoại của Đảng. Để giải quyết mối quan hệ dân tộc - giai cấp - quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và ngoại giao đa phương, Đảng ta, trên cơ sở nhận thức đúng đắn các đặc điểm, xu thế phát triển chủ yếu của thế giới khi bước sang thế kỷ XXI và xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định quan điểm: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với tinh thần “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(4). Trên tinh thần đó, Đảng ta nhấn mạnh: Trong thực hiện chính sách đối ngoại phải kiên định về chiến lược, giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời phải sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược khi xử lý các tình huống đối ngoại phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam.

Khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xem xét sự phát triển nội tại của CNXH trong điều kiện cụ thể Việt Nam, từ đó đề ra sự chuyển hướng chiến lược quan trọng cả trong đường lối đối nội (giải quyết mối quan hệ dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc theo lập trường giai cấp công nhân), đường lối đối ngoại trên cơ sở giữ vững được nguyên tắc chiến lược của CNXH, vừa phát huy tính linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội(năm 1991), Đảng ta đã đưa ra chủ trương chung về: “Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”, trong đó có các nội dung chính là: Không ngừng củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống với các nước XHCN, các nước anh em trên bán đảo Đông Dương. Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một ủng hộ các Đảng Cộng sản và công nhân, các phong trào cách mạng trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại. Phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á, tích cực góp phần xây dựng khu vực này thành khu vực hòa bình hợp tác. Phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau với các nước đang phát triển. Mở rộng sự hợp tác cùng có lợi với các nước phát triển.

Nghị quyết Đại hội X của Đảng (2006) cũng nhấn mạnh: Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa,đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Đó chính là sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp và lợi ích nhân loại. Đường lối đối ngoại của Đảng thể hiện việc sẵn sàng tham gia vào việc giải quyết các vấn đề chung toàn cầu, phát triển các quan hệ bình đẳng và hữu nghị với tất cả các nước, ủng hộ các lực lượng tiến bộ và các dân tộc bị áp bức.

Tiếp tục đường lối đối ngoại hội nhập, Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày tại Đại hội XII nêu rõ: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa,đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế,...”. Đây cũng chính là một nội dung của các bài học kinh nghiệm về “lợi ích dân tộc” và “phát huy sức mạnh tổng hợp” của 30 năm đổi mới ở Việt Nam. Đó là, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. 

Tiến trình đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải tiếp tục kết hợp hài hòa và giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc - giai cấp và quốc tế. Trong quan hệ đối ngoại cần thực hiện tốt các vấn đề sau:

- Tiếp tục khẳng định và kiên trì đường lối đối ngoại đúng đắn trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa,đa dạng hóa quan hệ quốc tế, với tinh thần “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững.

- Trong triển khai các hoạt động đối ngoại, cần nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tác trong quan hệ trên các lĩnh vực.

- Giữ vững quan điểm bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; chăm lo và tăng cường hậu thuẫn chính trị quốc tế cả trước mắt và lâu dài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

- Tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng. Việt Nam sẽ thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Tích cực đóng góp vào việc giữ vững các nguyên tắc cơ bản của ASEAN, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, tăng cường gắn kết giữa các thành viên của ASEAN, hạn chế tác động phân hóa từ bên ngoài.

- Tiếp tục thúc đẩy quan hệ với các nước lớn trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ mỗi nước. Thúc đẩy quan hệ với các nước đang phát triển, nâng cao vị thế của Việt Nam trong phong trào không liên kết, trong các diễn đàn quốc tế, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các đối tác quan trọng để Việt Nam có thể tham gia sâu hơn vào các thể chế, tổ chức quốc tế.

- Tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác với các đảng cộng sản, công nhân, duy trì quan hệ với các đảng cầm quyền, các chính đảng khác, các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tăng cường công tác đối ngoại nhân dân.

- Tích cực, chủ động, đa dạng hóa công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại để thu hút sự ủng hộ của bạn bè, nhân dân thế giới, vận động sự đóng góp, tạo điều kiện để cộng đồng người Việt ở nước ngoài gắn bó, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

- Đấu tranh chống những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch, như: “phi giai cấp”, “phi chính trị”, “phi nhất nguyên chính trị” để “đề cao” dân tộc và dân chủ.

________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2016

(1) ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.15.

(2) ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, tr. 70.

(3) Hồ Chí Minh:Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.510-512.

(4) ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.119.

 

PGS,TS Nguyễn Thị Ngân

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền