Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Đại đoàn kết các dân tộc - một bảo đảm cho việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam
Thứ ba, 29 Tháng 11 2016 08:49
2570 Lượt xem

Đại đoàn kết các dân tộc - một bảo đảm cho việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam

(LLCT) - Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng gắn với khâu đánh giá, quy hoạch, tạo nguồn và bố trí sử dụng cán bộ hợp lý và có hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kiên quyết trừng trị những kẻ cố tình lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền để gây rối, kích động quần chúng vi phạm pháp luật và phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết toàn dân.

1. Những thành tựu trong việc phát huy đại đoàn kết dân tộc, thực hiện quyền con người

Việt Nam có 54 dân tộc cùng chung sống, trong đó, dân tộc Kinh chiếm 85,7%, đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm 14,3%. Đặc điểm nổi bật trong quan hệ dân tộc ở Việt Nam là truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu đời trong cộng đồng các dân tộc. Cho đến nay, truyền thống đó đã được phát huy hiệu quả và tạo động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, góp phần quan trọng khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế

Trong lịch sử phát triển của dân tộc, không ít lần Việt Nam bị các thế lực lớn mạnh bên ngoài xâm chiếm, áp đặt chế độ cai trị. Điều này đã vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của một dân tộc là quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết.

Với việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, nhân dân các dân tộc Việt Nam đã đồng tâm, hiệp lực đứng lên đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giành độc lập dân tộc và khẳng định chủ quyền của mình, thực hiện quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác trong cộng đồng quốc tế. Biểu hiện cao nhất của sự đoàn kết dân tộc là đồng bào các dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quyết tâm lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển theo định hướng: độc lập dân tộc và CNXH. Đó là một tất yếu khách quan phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử, đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển của dân tộc trong mối quan hệ với cộng đồng quốc tế. Thực chất đó là thực hiện các quyền của dân tộc trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và phù hợp với quy định của Hiến chương Liên Hợp quốc tại Điều 1 Khoản 2: “Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc”, Công ước quốc tế (1966): “Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Vì lợi ích của mình, các dân tộc có quyền tự do định đoạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình miễn là không làm phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế quốc tế”.

Như vậy, quyền bình đẳng dân tộc, quyền dân tộc tự quyết và quyền con người đã được luật pháp quốc tế khẳng định. Song việc hiện thực hóa nó đạt hiệu quả đến đâu lại phụ thuộc vào khối đại đoàn kết toàn dân, sự đồng thuận của nhân dân các dân tộc trong mỗi quốc gia. Nói cách khác, đại đoàn kết dân tộc chính là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc để bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và là cơ sở xã hội để thực hiện các quyền của dân tộc và quyền con người.

Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền của các tộc người thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất

Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, các tộc người thiểu số tuy chiếm số ít nhưng lại có vị trí quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Phần lớn các tộc người thiểu số của nước ta đều cư trú ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới,... Đó là những nơi có môi trường sinh sống khó khăn, song là địa bàn chiến lược “phên dậu” của đất nước. Nơi đây, đồng bào dân tộc thiểu số trực tiếp tham gia bảo vệ lợi ích quốc gia, trong đó có lợi ích của chính mình thông qua việc bảo vệ biên giới, giữ vững sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội để phát triển đất nước.

Xét dưới góc độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc, đa dạng của dân tộc. Đó chính là biểu hiện của việc thực hiện quyền được bảo lưu, giữ gìn truyền thống văn hóa, bản sắc của mỗi dân tộc trong tổng thể nền văn hóa chung, thống nhất của quốc gia. Nói cách khác, lợi ích chính đáng, tối cao của từng tộc người phải được đặt trong mối quan hệ hài hòa với lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc và nó chỉ trở thành hiện thực khi xây dựng được mối quan hệ đồng thuận, đoàn kết gắn bó, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển.

Khẳng định quyền của các dân tộc trong cộng đồng quốc gia đa dân tộc, Điều 5 Hiến pháp năm 2013, quy định: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.

2. Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc và quyền con người

Việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để thực hiện quyền con người ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu. Song do nhiều yếu tố tác động (khách quan và chủ quan), nên trong nhiều trường hợp, quyền của các dân tộc, quyền con người trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chưa được bảo đảm hoàn toàn. Cụ thể là:

Những khó khăn về điều kiện tự nhiên đã và đang cản trở việc thực hiện đoàn kết dân tộc và quyền con người

Hiện nay, hầu hết dân tộc Việt (người Kinh) sinh sống ở vùng đồng bằng, đô thị, thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển, trong khi phần lớn các dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng khó khăn như: vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo với tình trạng khép kín, biệt lập, điều kiện địa lý, khí hậu khắc nghiệt..., đời sống khó khăn, thiếu thốn, ít cơ hội để phát triển. Mặt khác, giữa các vùng, các nhóm dân tộc và trong nội bộ mỗi tộc người, trình độ phát triển không đều, thậm chí lạc hậu. Do vậy, nhiều quyền con người chưa được bảo đảm.

Tình trạng cư trú xen kẽ giữa các tộc người trên cùng một địa bàn là nét đặc thù trong phân bố dân cư ở nước ta. Điều này vừa có mặt thuận lợi, vừa đặt ra những khó khăn trong quan hệ giữa các tộc người; trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; thực hiện các quyền của dân tộc và quyền con người.

Về mặt thuận lợi, sinh sống xen kẽ, các nhóm tộc người có điều kiện giao lưu, học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của nhau trong lao động sản xuất, tổ chức cuộc sống; tồn tại nhu cầu nương tựa nhau, chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau cùng vượt qua khó khăn vươn lên để phát triển, văn minh và hiện đại hơn. Qua đó xây dựng mối quan hệ dân tộc tốt đẹp và gắn kết giữa các tộc người. Đó cũng là điều kiện căn bản để thực hiện tốt quyền bình đẳng giữa các dân tộc cũng như các quyền cơ bản của con người.

Về mặt hạn chế, sự chênh lệch về trình độ phát triển, những khác biệt về phong tục, tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, lối sống v.v. của các tộc người trong nhiều trường hợp là nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết dân tộc và quyền con người.

Trong các mối quan hệ xã hội thì quan hệ dân tộc, tôn giáo và nhân quyền là những quan hệ rất nhạy cảm, giữa chúng có sự tác động tương hỗ, thống nhất với nhau không tách rời, đồng thời quy định lẫn nhau. Giải quyết tốt mối quan hệ này chính là nhằm hướng tới bảo đảm cho con người những quyền cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo. C.Mác từng chỉ rõ: “Khái niệm về nhân quyền tuyệt nhiên không toát ra tính chất không thể tương dung giữa tôn giáo với những quyền của con người... Đặc quyền tín ngưỡng là một quyền phổ biến của con người”(1). Song chủ nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định rằng, quyền phải gắn liền với pháp luật, bởi vì bản thân quá trình xây dựng các quyền của con người phải căn cứ trên cơ sở pháp luật, đồng thời pháp luật chỉ có ý nghĩa tiến bộ và có giá trị khi nó phản ánh và bảo vệ các quyền chính đáng của con người. Nói cách khác, pháp luật không chỉ là công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước, mà đồng thời là điều kiện và giới hạn để bảo đảm cho quá trình thực thi các quyền con người, quyền của các dân tộc không bị biến dạng hoặc lạm dụng. Như vậy, bảo đảm quyền của các dân tộc, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng chính là bảo đảm thực hiện những nội dung cốt yếu của quyền con người trong khuôn khổ của pháp luật, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.

Thực tế những năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, không ít nơi trong quá trình triển khai thực hiện chính sách dân tộc của Đảng còn tồn tại nhiều hạn chế như: lợi ích và quyền của các dân tộc thiểu số chưa được bảo đảm bởi sự phân hóa giàu, nghèo, sự chênh lệch về mức thu nhập và hưởng thụ giữa các vùng, miền; giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn; hệ thống chính sách trong phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số thực thi chưa hiệu quả; sự nhũng nhiễu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên... đã làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Nếu không giải quyết hiệu quả những vấn đề trên thì những mâu thuẫn làm rạn nứt khối đại đoàn kết dân tộc sẽ có chiều hướng gia tăng và làm cản trở việc thực hiện quyền của các dân tộc thiểu số và quyền con người ở nước ta (nhất là ở các khu vực: Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ).

Vai trò của các chủ thể trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, quyền con người chưa được phát huy hiệu quả

Ở nước ta hiện nay, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền còn gặp nhiều khó khăn, hệ thống pháp luật cũng chưa hoàn thiện, khiến cho việc thực hiện quản lý xã hội chưa tốt. Mặt khác, trong quá trình lãnh đạo, năng lực của nhiều cấp ủy đảng và cán bộ chính quyền địa phương ở vùng dân tộc thiểu số còn yếu kém. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội, do vậy còn tồn tại những sai phạm, thậm chí ở nhiều nơi rất nghiêm trọng. Trình độ học vấn, năng lực thực hành dân chủ, thực hành pháp luật của đồng bào dân tộc ở nhiều khu vực còn thấp. Điều này làm ảnh hưởng xấu đến khối đại đoàn kết dân tộc.

Sự chống phá của các thế lực thù địch, thực hiện âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, vi phạm quyền của các dân tộc và quyền con người ngày càng gia tăng và phức tạp

Trong quá trình triển khai chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống, không ít trường hợp còn nhiều sai phạm, đã không giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc, thậm chí có những nơi biểu hiện vi phạm quyền con người khá nghiêm trọng. Những sai phạm này đã bị các thế lực phản động trong và ngoài nước lợi dụng hòng phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội, hoặc kích động các tộc người thiểu số đòi ly khai dân tộc với danh nghĩa thực hiện “quyền tự quyết dân tộc”.

Năm 1966, Công ước quốc tế đã khẳng định, quyền dân tộc thiểu số với tư cách là quyền của các cá nhân được hưởng trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội dựa trên những đặc điểm chung về văn hóa, xã hội, ngôn ngữ. Song Công ước hoàn toàn không có bất cứ một điều khoản nào quy định quyền được đơn phương ly khai của một nhóm dân tộc thiểu số nào đó đòi tách ra khỏi một nhà nước thống nhất để thành lập quốc gia riêng. Vì vậy, việc các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, dân chủ, tôn giáo, nhân quyền để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam là một trong những hành động vi phạm luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam.

3. Một số giải pháp nhằm tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc và thực hiện tốt quyền con người

Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa vấn đề đoàn kết dân tộc với vấn đề nhân quyền

Những hạn chế, yếu kém trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ở nhiều nơi, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cũng như những mâu thuẫn giữa các dân tộc đã từng diễn ra có nhiều  nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân hạn chế về nhận thức, tư tưởng. Một bộ phận cán bộ (nhất là cán bộ cấp cơ sở) và nhân dân ở nhiều địa phương, đặc biệt là khu vực có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, nhận thức chưa đầy đủ và đúng đắn về tính chất phức tạp và nhạy cảm của các vấn đề này nên đã buông lỏng quản lý, hoặc tả khuynh trong việc giải quyết các quan hệ này. Từ đó, làm suy giảm lòng tin của dân với Đảng và tạo cớ cho các thế lực phản động lợi dụng kích động quần chúng chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, vi phạm nhân quyền. Do đó, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý các cấp, các già làng, trưởng bản, các chức sắc tôn giáo... về chính sách dân tộc, tôn giáo, bảo đảm quyền con người. Qua đó thực hiện tốt chính sách dân tộc, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo đảm quyền của các dân tộc, quyền con người để từng bước khắc phục sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các tộc người, hướng tới an dân, bảo đảm an sinh xã hội là điều kiện để thực hiện tốt quyền con người, góp phần tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Các cấp ủy, chính quyền cần mở rộng tuyên truyền, giáo dục cho toàn thể nhân dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số để họ hiểu rõ những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền; đồng thời, vận động quần chúng thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân.

Hai là, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong hệ thống quyền con người, quyền kinh tế là quan trọng nhất và là điều kiện vật chất cần thiết để thực hiện các quyền khác của con người. Do vậy, phát triển kinh tế là điều kiện căn bản nhất để thực hiện các quyền của con người. C.Mác viết: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”(2).

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta cần nhận thức rõ, bên cạnh những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội sau 30 năm đổi mới, nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống của người dân còn thấp kém, nhu cầu dân sinh chưa được đáp ứng đầy đủ, còn có sự chênh lệch lớn về điều kiện sống, mức thu nhập giữa các tộc người. Sẽ là ảo tưởng nếu chúng ta muốn có ngay quyền bình đẳng hoàn toàn giữa các tộc người trong khi điều kiện cơ sở vật chất, trình độ sản xuất, năng lực kinh tế còn lạc hậu. Bởi những hạn chế trong phát triển kinh tế tất yếu dẫn đến những hạn chế trong việc thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo và quyền con người. Đây là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh những bức xúc, mâu thuẫn trong quan hệ dân tộc - tôn giáo - nhân quyền ở nhiều nơi, làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết dân tộc những năm qua.

Do vậy, nâng cao đời sống vật chất, trình độ dân trí cho đồng bào các dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác vận động quần chúng, công tác dân tộc và tôn giáo. Thực hiện tốt những việc này không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc thể hiện rõ bản chất của chế độ XHCN.

Ba là, nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người

Nâng cao trình độ dân trí gắn với giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người là giải pháp quan trọng để tăng cường tình đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc, tôn giáo, nhân quyền và bảo đảm dân chủ. Muốn vậy, cần tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho hệ thống nhà trường, chú trọng phát triển các trường dân tộc nội trú ở các địa phương; tiếp tục thực hiện tốt phổ cập tiểu học ở vùng sâu, vùng xa; thực hiện tốt chính sách sử dụng và đãi ngộ đội ngũ giáo viên, nhất là đối với giáo viên và đội ngũ làm công tác giáo dục ở vùng miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Song song với việc dạy tiếng phổ thông, cần chú trọng dạy ngôn ngữ dân tộc cho con em đồng bào các dân tộc và cán bộ công tác ở vùng dân tộc, bởi nắm chắc ngôn ngữ dân tộc chính là một trong những phương tiện quan trọng để hiện thực hóa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong dân.

Cần coi trọng giữ gìn và phát huy giá trị của văn hóa truyền thống, những điểm phù hợp của đạo đức tôn giáo và của các thiết chế cổ truyền đặc sắc của đồng bào các dân tộc, xóa bỏ những tập quán lạc hậu, mê tín; đồng thời chú trọng xây dựng đời sống văn hóa mới cho đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao và biên giới.

Bốn là, xây dựng khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, giữ vững an ninh, quốc phòng; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa đặc thù về lối sống, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng... nên việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo có ý nghĩa chiến lược. Do vậy, cần coi trọng xây dựng tình đoàn kết giữa người Kinh với đồng bào dân tộc thiểu số, giữa đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ với đồng bào di cư đến, giữa người có tín ngưỡng tôn giáo và không có tín ngưỡng tôn giáo... để giúp đỡ nhau trong phát triển sản xuất, xây dựng đời sống mới.

Tăng cường củng cố an ninh quốc phòng là nhiệm vụ thường trực để chủ động ngăn ngừa các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, dân chủ, tôn giáo và nhân quyền. Muốn vậy, phải thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, bảo đảm dân chủ và nhân quyền, đồng thời đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn. Cần có những biện pháp đấu tranh với những âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề dân tộc, vấn đề dân chủ, tôn giáo và nhân quyền để kích động, gây mâu thuẫn nội bộ giữa các dân tộc...

Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng gắn với khâu đánh giá, quy hoạch, tạo nguồn và bố trí sử dụng cán bộ hợp lý và có hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kiên quyết trừng trị những kẻ cố tình lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền để gây rối, kích động quần chúng vi phạm pháp luật và phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết toàn dân.

_____________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3 - 2016

(1) C. Mác, Ph Ăngghen: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.549.

(2) Sđd, t.19, tr.36.

 

PGS, TS Bùi Thị Ngọc Lan

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền