Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Thứ hai, 23 Tháng 1 2017 17:46
6057 Lượt xem

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân

(LLCT) - Đảng lãnh đạo đổi mới chính trị và hệ thống chính trị, muốn có kết quả, hiệu quả, Đảng phải tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội. Lãnh đạo các đoàn thể, xét cả về nội dung và phương thức, đều liên quan tới mối quan hệ giữa Đảng với các đoàn thể mà thực chất là quan hệ giữa Đảng với Dân. Do đó, phải chú trọng dân chủ hóa, khoa học hóa và văn hóa hóa trong công tác lãnh đạo của Đảng. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo một cách dân chủ, khoa học và nêu gương. Lãnh đạo bằng sự gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất, có tác dụng nhất. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, trong nội dung xây dựng Đảng, trong đổi mới chính trị và hệ thống chính trị ở nước ta, cần phải được nhận thức và vận dụng có kết quả.

1.  Đổi mới chính trị và hệ thống chính trị - yêu cầu bức thiết của thời kỳ mới

Khởi xướng và lãnh đạo, tổ chức thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải đổi mới toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực.

Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng về kinh tế và ở một mức độ nhất định, cũng đã đạt được những kết quả trong đổi mới hệ thống chính trị. Tuy nhiên, trải qua 6 kỳ Đại hội, từ Đại hội VI đến Đại hội XI, trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, việc đổi mới chính trị và hệ thống chính trị tuy kết quả đạt được là quan trọng nhưng vẫn chưa tương xứng, chưa thật đồng bộ với đổi mới kinh tế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Còn phải tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết nhiều vấn đề thực tiễn để đổi mới chính trị, trước hết là đổi mới hệ thống chính trị thực sự trở thành động lực thúc đẩy đổi mới kinh tế, xây dựng nền dân chủ XHCN, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Một trong những vấn đề quan trọng đang đặt ra là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.

Đại hội XII của Đảng (2016) đã đưa ra những quyết sách quan trọng đối với sự phát triển của đất nước và dân tộc trong thời kỳ mới, có thể nói là thời kỳ phát triển bước ngoặt của nước ta.

Nếu chặng đường 30 năm qua ví như “cuộc đổi mới lần thứ nhất” thì Đại hội XII đánh dấu sự khởi đầu của “đổi mới lần thứ hai” với những thời cơ, vận hội mới và cả những thách thức mới.

Đổi mới lần thứ nhất”, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân chủ yếu hướng vào đổi mới kinh tế, đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa, xây dựng và phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Những thành tựu quan trọng nổi bật là giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại đoàn kết dân tộc và củng cố đồng thuận xã hội, bảo đảm được định hướng XHCN, nước ta đã ra khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển, có mặt trong các nước đang phát triển. Một diện mạo mới của Việt Nam đã hình thành với thếlực mới. Đó là cơ sở và tiền đề quan trọng để giờ đây, đất nước bước vào “cuộc đổi mới lần thứ hai” mà Đại hội XII là sự khởi đầu cho khởi nghiệp sáng tạo, nâng cao tiềm lực và thực lực của đất nước, năng lực cạnh tranh quốc gia trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập.

Để đạt được mục tiêu của “cuộc đổi mới lần thứ hai” là đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao, phải giải quyết thành công những điểm nghẽn của phát triển bằng những đột phá vào chính những điểm nghẽn đó, nghẽn về thể chế, về hạ tầng kỹ thuật - công nghệ, về chất lượng nguồn nhân lực.

Do đó, tất yếu đặt raphải chú trọng vào đổi mới chính trị và hệ thống chính trị phải có chuyển biến thực sựsao cho thật đồng bộ với đổi mới kinh tế. Những điểm quan trọng mà Đại hội XII đã nêu là:

- Đặt lên hàng đầu yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ.

- Xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN, thực hành dân chủ, nhất là dân chủ trong Đảng, thúc đẩy dân chủ trong xã hội.

- Đẩy mạnh cải cách thể chế để tăng cường giám sát và kiểm soát quyền lực, tạo lập và thực hiện cơ chế để nhân dân (thông qua Mặt trận và các đoàn thể) tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, quản lý nhà nước, đồng thời phát huy thực sự quyền làm chủ, vai trò làm chủ của người dân; đấu tranh có hiệu quả với quan liêu, tham nhũng, tệ nạn và các tiêu cực xã hội.

- Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh, hệ thống chính trị thực sự của dân, vì dân, hướng tới dân ở cơ sở để thực sự là một hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, chất lượng, hiệu quả, tạo lập môi trường xã hội lành mạnh vì sự tiến bộ và phát triển bền vững.

Cải cách thể chế là vấn đề đang đặt ra bức thiết. Cải cách thể chế để kinh tế - xã hội vượt qua những điểm nghẽn, những nút thắt hay là những rào cản; giải phóng mọi tiềm năng phát triển bằng lực đẩy của thể chế - thiết chế - nguồn lực - chính sách và cơ chế, để vừa thu hút tốt nguồn lực vừa phân bổ hợp lý, hiệu quả các nguồn lực phát triển.

Như vậy, Đại hội XII đã đặt ra và xác định những vấn đề hệ trọng về đổi mới chính trị, hệ thống chính trị nước ta. Trong đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chẳng những làm cho Mặt trận và các đoàn thể mạnh lên mà còn làm cho Đảng, Nhà nước cũng mạnh lên, tạo ra sức mạnh cố kết Đảng với Nhà nước, với nhân dân chặt chẽ, mật thiết hơn để thực hiện thắng lợi hệ mục tiêu của đổi mới.

2. Đảng lãnh đạo đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận trong tình hình mới, trước yêu cầu mới

Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động không chỉ đặt ra đối với Mặt trận và các đoàn thể mà còn đặt ra trước hết đối với Đảng và Nhà nước, do Đảng lãnh đạo. Giải quyết vấn đề rộng lớn và phức tạp này liên quan đến đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy lãnh đạo, quản lý, đổi mới tổ chức bộ máy (hệ thống thiết chế), đổi mới thể chế, cải cách hành chính, tư pháp. Nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể gắn liền với tổ chức, mô hình tổ chức và đặc biệt là chất lượng cán bộ, nói rộng hơn là nhân lực trong chính giới và trong xã hội, cả trong hoạt động chấp chính và tham chính.

Do đó, đây là cả một hệ vấn đề phức tạp chi phối và chế ước lẫn nhau.

Đảng thực thi vai trò lãnh đạo của mình đối với Mặt trận bằng định hướng ở tầm chiến lược về quan điểm, nguyên tắc, xác định phương hướng, mục tiêu, yêu cầu mà cũng tạo môi trường và điều kiện (cùng với Nhà nước và xã hội) để Mặt trận tự đổi mới chứ Đảng không làm thay cho Mặt trận, càng không thể áp đặt, ra lệnh cho Mặt trận.

Vậy, một nhận thức chung về Đảng lãnh đạo Mặt trận, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận từ yêu cầu đổi mới nội dung và phương thức hoạt động nên được xác định như thế nào? Có mấy điểm phải làm rõ, đó là:

(1) Mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận trong hệ thống chính trị; (2) Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận trong xã hội. (3) Tính đặc thù của Mặt trận trong cơ cấu tổ chức Mặt trận, giữa Mặt trận với các tổ chức thành viên, nguyên tắc và phương thức hoạt động của Mặt trận.

Làm rõ ba vấn đề trên để xác định đúng chức năng và nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và Mặt trận cùng các tổ chức thành viên, từ đó thấy rõ Đảng lãnh đạo Mặt trận như thế nào? Nhà nước thực hiện trọng trách quản lý sẽ tác động tới Mặt trận ra sao? Mặt trận tác động trở lại với Đảng và Nhà nước như thế nào, xuất phát từ tính đặc thù của Mặt trận, từ vai trò, trọng trách của Mặt trận đối với xã hội và nhân dân.

Ngoài những điểm khác nhau đó, Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể lại cùng có điểm chung, đó là sự thống nhất ở mục đích vì dân, vì dân chủ và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, thực hiện thắng lợi mục tiêu của đổi mới,“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đảng và Mặt trận đều là những thành viên của hệ thống chính trị. Đảng cũng đồng thời là thành viên của Mặt trận. Song, Đảng là lực lượng lãnh đạo xã hội và Nhà nước, với tư cách và vị thế đảng cầm quyền.

Do đó, tuy tham gia vào Mặt trận và hệ thống chính trị nhưng Đảng là hạt nhân lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo Nhà nước và hệ thống chính trị. Địa vị và thẩm quyền lãnh đạo đó của Đảng đã được hiến định. Địa vị pháp lý của Đảng đã được thừa nhận, được khẳng định, đó là tính chính danh, chính đáng của Đảng. Uy tín và ảnh hưởng rộng lớn của Đảng trong xã hội còn cho thấy, Đảng lãnh đạo và cầm quyền không chỉ chính danh, chính đáng mà còn xứng đáng, được cả dân tộc và nhân dân thừa nhận. Do đó, Đảng phải hết sức chú trọng thực hiện pháp luật, cán bộ, đảng viên và mọi tổ chức Đảng phải gương mẫu chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp luật. Điều đó có nghĩa là, hoạt động của Đảng phải là hợp hiến, không để xảy ra tình trạng vi hiến, đồng thời trong lãnh đạo Nhà nước, Đảng chú trọng lãnh đạo xây dựng và thực hiện cơ chế bảo hiến. Đảng mạnh từ sức mạnh của Nhà nước pháp quyền. Đảng mạnh còn từ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đồng thuận của xã hội mà Mặt trận là lực lượng nòng cốt để quy tụ sức mạnh ấy từ sức dân, lòng dân.

Với tư cách thành viên của Mặt trận, dù là thành viên lãnh đạonhưng Đảng phải nhận rõ và tự mìnhthực hiện tốt nghĩa vụ thành viên của mình đối với Mặt trận, để làm tròn nghĩa vụ với Mặt trận. Xét về thực chất, Đảng làm nghĩa vụ với Mặt trận chính là làm nghĩa vụ, bổn phận với nhân dân và xã hội, “chịu trách nhiệm cao nhất với nhân dân và xã hội về những quyết định của mình” (Khoản 3, Điều 4, Hiến pháp 2013).

Quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nước (cả lập pháp, hành pháp, tư pháp) cũng cần phải đặt trong tương quan với hệ thống chính trị. Cần nhận rõ, Nhà nước với đặc trưng quyền lực, thực hiện sự ủy quyền của dân, thực thi quyền lực do dân trao cho để đem lại quyền và lợi ích cho dân, đồng thời dùng quyền lực, quyền uy của nhà nước pháp quyền của dân để bảo vệ nhân dân. Do đó, Nhà nước là rường cột của hệ thống chính trị. Mặt trận bao gồm một tập hợp lớn các tổ chức xã hội, tham gia vào hệ thống chính trị, tạo nên một liên minh chính trị - xã hội rộng lớn nhất, là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng, của chính quyền.

Tuy nhiên, xét về mặt cơ cấu tổ chức, có sự phân định mang tính nguyên tắc cần phải nhận rõ: Mặt trận và Nhà nước đều tham gia vào hệ thống chính trị, Đảng tham gia vào Mặt trận nhưng Nhà nước phải ở ngoài Mặt trận. Bởi Nhà nước là tổ chức quyền lực, có chức năng quản lý, còn Mặt trận mang đặc trưng đại diện cho quyền lực xã hội, quyền lực nhân dân, kể cả tự quản, nó ở bên ngoài quyền lực nhà nước.

Xã hội có hai loại hình thiết chế quyền lực: quyền lực nhà nước bởi nhà nước, quyền lực ngoài nhà nước, đặc trưng bởi mặt trận và các thiết chế xã hội dân sự. Không như vậy sẽ lẫn lộn trong chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của các tổ chức, làm cho vấn đề ủy quyềnthực thi sự ủy quyền của dân không rành mạch, khó thực hiện, nhất là có nguy cơ nhà nước hóa, hành chính hóa trong tổ chức, trong hoạt động của các tổ chức ngoài nhà nước. Chỗ phức tạp của đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là ở đó.

Xét về nguyên tắc thì Nhà nước ở ngoài Mặt trận nhưng có những bộ phận của Nhà nước lại tham gia vào công việc hoạt động của Mặt trận, đó là quốc phòng và an ninh. Tính đặc thù này do hoàn cảnh lịch sử nước ta quy định, đó là yêu cầu xây dựng gắn liền với bảo vệ, dựng nước đi liền với giữ nước. Bởi thế, để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, là mục tiêu trung tâm của Mặt trận, phải gắn với phong trào toàn dân tham gia bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, huy động sức mạnh toàn dân trong chiến tranh nhân dân, tạo thành sức mạnh của thế trận lòng dân.

Về đặc thù của tổ chứchoạt động của Mặt trận có thể nhận rõ ở mấy dấu hiệu sau:

- Mặt trận bao gồm các tổ chức thành viên, về nguyên tắc, Mặt trận là liên hiệp các tổ chức, là liên minh chính trị xã hội rộng lớn nhất, Mặt trận dường như không có cá nhân, chỉ một số trường hợp tiêu biểu (nhà hoạt động tôn giáo, xã hội, trí thức, nhân sỹ, đại diện người Việt Nam ở nước ngoài).

- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ (chứ không phải tập trung dân chủ). Đảng lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể cũng trên tinh thần dân chủ, tuyên truyền, vận động, thuyết phục, hiệp thương để đoàn kết, đồng thuận (chứ không áp đặt, ra lệnh).

Như vậy, quan hệ Đảng - Nhà nước - Mặt trận - Đoàn thể, trong Mặt trận và trong hệ thống chính trị, cùng đồng quy vào mục tiêu phục vụ nhân dân, dân tộc và cộng đồng xã hội. Vậy để Mặt trận tự đổi mới nội dung và phương thức hoạt động theo sự lãnh đạo của Đảng, cần phải tập trung giải quyết những vấn đề gì?

- Trước hết, Đảng không ngừng đổi mới tư duy, nâng cao trình độ nhận thức lý luận về Mặt trận, về hệ thống chính trị và quan tâm giáo dục nhận thức trong Đảng và trong xã hội, tạo sự thống nhất nhận thức để thống nhất hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Đề cao vai trò của Mặt trận và các đoàn thể, sâu xa là thấm nhuần tinh thần trọng dân, trọng pháp, vì dân, tin dân, gần dân, học dân, hỏi dân. Đây là một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh mà tất cả các tổ chức, mọi người, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý cùng với đội ngũ 4,5 triệu đảng viên phải thấm nhuần và gương mẫu thực hành.

- Đảng lãnh đạo Mặt trận một cách dân chủ và khoa học, bằng sức mạnh của đạo đức và văn hóa, sao cho Mặt trận bằng sự đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mình mà thực sự tiêu biểu cho sức mạnh Dân chủ - Đoàn kết và Đồng thuận của toàn xã hội.

- Đảng lãnh đạo Mặt trận vừa trực tiếp, thông qua Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng, thông qua đại diện của Đảng bên cạnh Mặt trận lại vừa gián tiếp thông qua Nhà nước, nhất là lãnh đạo Nhà nước để thể chế hóa sự lãnh đạo bằng luật pháp và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phân bổ các nguồn lực đầu tư phát triển, thông qua các Ủy ban và các cơ quan chuyên môn của Quốc hội. Đây là một kênh rất quan trọng để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận.

- Giải quyết các vấn đề đang vướng mắc từ nhận thức đến cơ chế, chính sách, điều kiện hoạt động cũng như các vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa Mặt trận với Đảng, với Nhà nước, với các tổ chức xã hội để Mặt trận chủ động đổi mới hoạt động, từ nội dung đến phương thức.

Trong một thời gian dài, những vấn đề cụ thể, thiết thực này đã được phát hiện nhưng lại chậm giải quyết và giải quyết chưa triệt để, ít hiệu quả, làm chậm bước tiến của đổi mới chính trị và hệ thống chính trị nói chung và tự đổi mới của Mặt trận nói riêng.

Những vấn đề biểu hiện thành các mâu thuẫn phải giải quyếtlà:

Xác định vai trò, chức năng và nhiệm vụ chính yếu của Mặt trận, trước hết là giám sát, tư vấn và phản biện đường lối, chính sách, nhất là với Nhà nước. Hầu hết nỗ lực và tinh lực của Mặt trận phải tập trung vào lĩnh vực này, tức là tham chính trong một xã hội dân chủ, một nhà nước pháp quyền. Không thể và không nên để Mặt trận hoạt động như hiện nay, làm thay các tổ chức, các bộ, ban, ngành đủ mọi thứ việc: xóa đói giảm nghèo, nhà tình nghĩa, xây dựng khối phố dân cư gia đình văn hóa... trong khi cái chính yếu của Mặt trận là giám sát, tư vấn, phản biện xã hội thì chưa chú trọng đẩy mạnh.

Để xác lập đúng vị trí, vai trò, trách nhiệm đó của Mặt trận thì phải coi trọng hoạt động tham chính một cách dân chủ, bình đẳng của Mặt trận. Ngay cả khi Mặt trận đóng vai trò Hiệp thương dân chủ trong quá trình bầu cử thì cũng phải đề cao thẩm quyền, trách nhiệm của Mặt trận, thay mặt dân, tìm ra những đại biểu xứng đáng của dân, “chọn đúng người, giao đúng việc, kiểm tra thường xuyên”, “bộ máy phục vụ chính trị chứ chính trị không phục vụ bộ máy” (Lênin). Mặt trận góp sức, góp tâm trí, sáng kiến, năng lực, bản lĩnh làm nên sức mạnh của dân tộc.

Muốn làm cho Mặt trận có được “sức khỏe”, Đảng, Nhà nước, xã hội phải dồn sức chăm lo đầu tư, tạo điều kiện cho Mặt trận, đồng thời đòi hỏi Mặt trận phải chủ động, nỗ lực vươn lên, tự đổi mới, tự trưởng thành, khắc phục những bất cập, yếu kém cố hữu và kéo dài từ lâu, rõ nhất là tính hành chính quan liêu, xa dân; tính hình thức chạy theo bề nổi của phong trào, tính ôm đồm, sa vào những việc, công việc vốn chỉ nên phối hợp, hợp tác mà chưa chú trọng vào việc chính yếu thực sự là của mình (giám sát, tư vấn, phản biện, kiểm soát). Nó có cả những tàn dư trì trệ, bảo thủ, ngại đổi mới, chậm đổi mới... Một vấn đề rất thời sự là điều kiện vật chất cho Mặt trận hoạt động một cách đúng chức năng, chủ động và có thực lực, thực quyền. Phải có ngân sách, kinh phí được phân bổ từ ủy ban ngân sách Quốc hội cho Mặt trận và các đoàn thể công khai, minh bạch, đàng hoàng. Muốn phản biện cho Nhà nước, cho Chính phủ mà lại lệ thuộc vào đồng lương do Chính phủ cấp thì không sao phản biện cho đáng là phản biện được. Sửa tình trạng này phải từ sự thống nhất giữa Đảng - Nhà nước và nhân dân. Do đó, công tác Mặt trận và các đoàn thể là công tác xã hội, là dân vận, không phải và không thể hành chính hóa, công chức hóa. Đội ngũ cán bộ Đảng, Mặt trận và các đoàn thểkhông phải là công chức nhà nước thuần túy như trong các bộ máy nhà nước. Cần phải thay đổi từ quan niệm đến bộ máy, đến con người và chính sách. Đây là mắt khâu cần đột phá trong đổi mới chính trị ở nước ta trong công cuộc đổi mới lần thứ hai này.

Đẩy mạnh thực hành dân chủ một cách thiết thực, mà Đảng và Nhà nước phải làm gương mẫu, Mặt trận và các đoàn thể làm nòng cốt (nhất là Đoàn thanh niên - lực lượng chính trị hậu bị của Đảng. Các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các thủ lĩnh Mặt trận và thủ lĩnh các đoàn thể cần gặp gỡ, giao tiếp, đối thoạithường xuyên với dân thuộc các đối tượng, nhất là với lớp trẻ, coi đây như một nhu cầu văn hóa. Tiếp tục thực hiện quyền chất vấn mà Quốc hội đã làm tốt từ những kỳ họp Quốc hội trong những khóa vừa qua.

Ngay trong Đảng, từ Trung ương đến các cấp ủy địa phương, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII cũng phải đưa hoạt động chất vấn vào các chương trình nghị sự. Công khai kết quả bỏ phiếu tín nhiệm trong Đảng, Nhà nước và đoàn thể. Đó là những việc làm cần thiết trong đời sống chính trị, trong xây dựng văn hóa dân chủ.

Cuối cùng, cần phải có chiến lược cán bộ, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lâu dài đội ngũ cán bộ Đảng, Mặt trận và các đoàn thể về mọi mặt, từ năng lực, trình độ chuyên môn, tư tưởng chính trị, đạo đức và phong cách công tác, nhất là phương pháp, kỹ năng và phong cách dân vận. Xét đến cùng, cán bộ là quyết định. Cán bộ nào thì phong trào ấy. Phải bảo đảm có đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ.

3. Đảng lãnh đạo đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân đáp ứng yêu cầu đổi mới chính trị và hệ thống chính trị

Các đoàn thể của nhân dân hay tổ chức quần chúng là một tập hợp rất đa dạng, nhiều loại hình, mô hình và cấp độ.

Trước hết, phải kể đến các đoàn thể tham gia vào hệ thống chính trị cũng đồng thời là những tổ chức thành viên của Mặt trận. Đó là: Công đoàn, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

Cùng với Đảng, Nhà nước, Mặt trận, 5 tổ chức nêu trên là những bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị, của Mặt trận.

Như vậy, trong hệ thống chính trị nước ta (có ở tất cả các cấp) do Đảng lãnh đạo có cơ cấu tổ chức xác định, gồm 8 tổ chức - chủ thể đó, gồm 2 loại thiết chế: chính trị (Đảng và Nhà nước) và chính trị - xã hội. Ngoài ra, ở nước ta còn có các tổ chức xã hội - nghề nghiệp (Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật công nghệ, Liên hiệp các Hội văn học - nghệ thuật,...) và rất nhiều các hội có đặc tính xã hội và nghề nghiệp khác (Hội Xuất bản, Hội Nghề cá, Hội Đông y...).

Lại có một loại hình các hội xã hội từ thiện, thiện nguyện, làm công tác xã hội nhân đạo, các hội dân lập có tính tự quản mang nhu cầu giao tiếp xã hội, không nhất thiết phải có đủ hệ thống ở cả bốn cấp, nhiều khi chỉ có ở địa phương và cơ sở (Hội Bảo thọ, Hội Người cao tuổi, làm vườn, nuôi ong, hội thơ...). Bức tranh về hội là phong phú, đa dạng, số lượng lên tới hàng nghìn, hàng vạn hội, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội.

Theo xu hướng phát triển của dân chủ thì Nhà nước cũng sẽ giảm dần chức năng chính trị và tăng dần chức năng xã hội, chức năng phục vụ, làm cho Nhà nước đóng vai trò “Nhà cung cấp dịch vụ công lớn nhất” của cộng đồng dân cư. Gần đây, người ta nói nhiều đến vai trò Nhà nước trong “kiến tạo phát triển”, bằng các tác nhân như thể chế và chính sách để thúc đẩy khởi nghiệp, sáng tạo trong xã hội, với mục đích khai thác tốt nhất các năng lực sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, thúc đẩy sự phát triển cá nhân và cộng đồng, phát triển vùng, địa phương và cơ sở. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các đoàn thể cũng hướng theo mục đích đó, quy tụ vào đoàn kết, hợp tác, chia sẻ trách nhiệm xã hội và liên kết xã hội để phát triển: kinh tế thịnh vượng, xã hội công bằng, dân chủ, cá nhân có môi trường hoạt động sáng tạo, phát triển tự do các năng lực sẵn có, vì lợi ích và hài hòa lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng. Tinh thần khởi nghiệp sáng tạo mang ý nghĩa phát triển nhân văn vì con người. Chính giới trong trọng trách của mình (chấp chính) phải thúc đẩy sự phát triển ấy. Hoạt động tham chính của các tổ chức và của từng cá nhân theo đúng các yêu cầu chuẩn mực dân chủ - pháp quyền và nhân văn. Các đoàn thể của nhân dân mà trước hết là các tổ chức chính trị và chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị phải đi tiên phong trong đổi mới, từ quan niệm (tư duy) đến nội dung và phương thức hoạt động để đáp ứng những đòi hỏi của phát triển.

Đảng lãnh đạo Mặt trận, các đoàn thể và nói rộng ra là lãnh đạo toàn xã hội, phải chú trọng lãnh đạo tư tưởng, chính trị, xây dựng thể chế, công tác cán bộ... theo đúng đặc thù của các tổ chức, và phù hợp với các đối tượng, tạo định hướng, tạo môi trường, tạo điều kiện cho các đoàn thể tự đổi mới, tự phát triển... vì đoàn viên, hội viên của mình và góp phần vào phát triển cộng đồng xã hội.

Như vậy, Đảng lãnh đạo đổi mới chính trị và hệ thống chính trị, muốn có kết quả, hiệu quả, Đảng phải tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội. Lãnh đạo các đoàn thể, xét cả về nội dung và phương thức, đều liên quan tới mối quan hệ giữa Đảng với các đoàn thể mà thực chất là quan hệ giữa Đảng với Dân. Do đó, phải chú trọng dân chủ hóa, khoa học hóavăn hóa hóa trong công tác lãnh đạo của Đảng. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo một cách dân chủ, khoa học và nêu gương. Lãnh đạo bằng sự gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất, có tác dụng nhất. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, trong nội dung xây dựng Đảng, trong đổi mới chính trị và hệ thống chính trị ở nước ta, cần phải được nhận thức và vận dụng có kết quả.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2016

GS, TS Hoàng Chí Bảo

Hội đồng Lý luận Trung ương

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền