Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Một số vấn đề về giai cấp công nhân và chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay
Thứ tư, 01 Tháng 3 2017 13:04
6110 Lượt xem

Một số vấn đề về giai cấp công nhân và chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay

(LLCT) - Với quan niệm, chủ nghĩa Mác chỉ có thể được bảo tồn và làm giàu một cách sáng tạo trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học hiện đại và những đánh giá đúng những thay đổi của thế giới, một số nhận định của Mác về giai cấp công nhân, về chủ nghĩa xã hội cần được bổ sung, bởi: giai cấp công nhân hiện đã có nhiều biến đổi so với thế kỷ XIX, như nguồn gốc xuất thân từ đô thị, cơ cấu giai cấp đa dạng... Thực tế cũng làm nảy sinh yêu cầu nhận thức mới về vấn đề sở hữu tư nhân và chế độ người bóc lột người; về  chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và chủ nghĩa dân tộc; về những điều kiện khách quan cho xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển rút ngắn, vai trò của nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,...

Nhiều quan niệm cho rằng, chủ nghĩa Mác chỉ có thể được bảo tồn và làm giàu một cách sáng tạo trong thời đại ngày nay trên cơ sở những thành tựu mới của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại và đánh giá đúng những thay đổi lớn của thế giới. Những nhận định về giai cấp công nhân (GCCN), đảng cộng sản, những đặc trưng, điều kiện hình thành xã hội XHCN và xã hội CSCN... của Mác đặt trong bối cảnh hiện nay đã có nhiều điểm không còn phù hợp, cần bổ sung, phát triển. Quan niệm này đã hàm ý biện luận cho những tư tưởng của C.Mác về tương lai nhưng lại được tư duy bằng vật liệu đương thời và nó thuộc về tính tương đối của chân lý. Tính phức tạp của việc nghiên cứu là ở chỗ, hình thái này chưa tới, tất cả các dữ liệu để tư duy lại đều đang vận động và thay đổi. Và có thể, có những cái chưa đúng, chưa có hiện nay nhưng sẽ đúng, xuất hiện trong tương lai. Vì vậy, cần có những phân tích, đánh giá, dự báo để bổ sung nhận thức mới, nhằm hoàn thiện, phát triển và vận dụng các luận điểm đó phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện nay.

1. Về giai cấp công nhân hiện đại

Nguồn gốc xuất thân

Giai cấp công nhân thời Mác là giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột và xuất thân chủ yếu từ nông dân, nông thôn. Nhưng khoảng giữa thế kỷ XX trở lại đây, xu thế đô thị hóa và đông đảo cư dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào nguồn nhân lực của GCCN khiến cho quá trình đô thị hóa trên thế giới có sự khác biệt so với những thế kỷ trước. Trước đây, các vùng tụ cư trong lịch sử nhân loại thường ở lưu vực các con sông lớn, nơi thuận tiện cho canh tác nông nghiệp và có nguồn nước cho sinh hoạt. Ngày nay, đặc biệt là từ giữa thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện những thành phố lớn trên sa mạc như  Las Vegas hay nhiều đô thị ở Trung Đông... Chúng hầu như được xây dựng và phát triển dựa trên nguyên lý mới: khắc phục sự khắc nghiệt của tự nhiên, nhân tạo hóa các điều kiện sống bằng khoa học và công nghệ hiện đại. Đây là một quá trình gắn liền với phát triển văn minh và công nghệ. Đó là những thành phố được dịch vụ bởi công nghệ hiện đại. Nó cần đến công nghệ mới, công nghiệp và công nhân. Hiện nay, khu vực có mức đô thị hóa cao nhất là Bắc Mỹ với 82% dân số sống ở đô thị, tiếp đó là Mỹ Latinh, Caribean (80%) và châu Âu (73%). Báo cáo “Nhìn lại triển vọng đô thị hóa thế giới” của Liên Hợp quốc năm 2005, mô tả “thế kỷ XX đã chứng kiến quá trình đô thị hóa nhanh chóng của cư dân thế giới” với tỷ lệ cư dân đô thị tăng từ 13% (220 triệu người) năm 1900 lên 29% (732 triệu người) năm 1950 và 49% (3,2 tỷ người) năm 2005. Báo cáo này cũng ước tính rằng vào năm 2030 con số đó sẽ là 60% (4,9 tỷ người). Một nhà nghiên cứu nhận định: “Chúng ta đã chưa bao giờ có một cuộc cách mạng nhân khẩu học nhanh và triệt để như cuộc cách mạng của 100 năm qua. Vào năm 1900 hay khoảng đó, gần 95% người ở khắp thế giới làm công việc chân tay. Và cũng chỉ có gần 5% người đã sống ở đô thị có dân cư trên 100.000 dân. Hiện nay, khu vực có mức đô thị hóa cao nhất hiện nay là Bắc Mỹ với 82% dân số sống ở đô thị, tiếp đó là Mỹ La tinh, Caribean (80%) và châu Âu (73%). Ở các nước phát triển, tỷ lệ người làm công việc chân tay đã giảm xuống còn 20 - 25%  trong lực lượng lao động và gần 50% dân cư sống ở đô thị”([1]1).Lối sống đô thị khá gần gũi với tác phong lao động công nghiệp đã giúp người lao động bắt nhịp nhanh hơn với phương thức sản xuất công nghiệp. Cơ cấu xuất thân của công nhân đa dạng hơn: công nhân truyền thống, trí thức - công chức, tiểu thương, dịch vụ...

Đô thị hóa làm xuất hiện đông đảo hơn đội ngũ lao động làm thuê, vốn có mặt từ thời Mác viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, như: bác sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ, bác học... và họ “đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê...”(2). Hiện nay, bộ phận này đông đúc, đa dạng hơn bởi được bổ sung thêm lực lượng lao động dịch vụ xã hội với hàng nghìn ngành, nghề khác nhau. Xét về cơ cấu xã hội, các nhà nghiên cứu đều thấy sự tăng lên của những nhóm lao động dịch vụ mới. Họ là những người kết hợp cả lao động chân tay và lao động trí óc. Ở các quốc gia phát triển đã xuất hiện cơ cấu xã hội mới với vai trò mới của trí thức, công nhân tri thức. Piter Druke cho biết: “Người làm việc cả bằng tay lẫn bằng kiến thức lý thuyết đã tạo thành nhóm tăng nhanh nhất trong lực lượng lao động Mỹ từ năm 1980 (Thí dụ các kỹ thuật viên máy tính, kỹ thuật viên X quang, nhà vật lý trị liệu, các kỹ thuật viên phòng thí nghiệm y khoa, v.v..”)(3).Bởi vậy, ở nhiều nước phát triển hiện nay, liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân đã không còn cơ sở xã hội như thế kỷ XIX và thay vào đó là liên minh giữa những người lao động mà chủ yếu là hai nhóm ngành lao động đông đảo ở đô thị là sản xuất công nghiệp và dịch vụ bằng phương thức công nghiệp.       

Đô thị là nơi đấu tranh giai cấp hiện đại bộc lộ tính điển hình của nó.Ph.Ăngghen từng viết: “Các thành phố lớn là nơi bắt nguồn của phong trào công nhân: nơi đây công nhân lần đầu tiên đã bắt đầu suy nghĩ về tình cảnh của mình và đấu tranh để thay đổi nó, nơi đây sự đối lập về lợi ích giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản lần đầu đã biểu lộ ra, nơi đây những liên đoàn lao động, phong trào Hiến chương và chủ nghĩa xã hội đã ra đời...”(4).

 Phân hóa sâu sắc của xã hội đô thị khiến các điểm nóng xã hội, xung đột chính trị xuất hiện thường xuyên hơn. Cuốn sách Thế kỷ của những cuộc cách mạng 1789 - 1848 (xuất bản năm 1962 và tái bản 2005) của nhà sử học Eric Hobsbawm đã chỉ rõ “Phát triển đô thị trong giai đoạn 1789 - 1848 là một quá trình chia tách giai cấp khổng lồ, đã đẩy những người lao động nghèo vào các vũng lầy khổng lồ của tình trạng khốn cùng bên ngoài các trung tâm của chính phủ, của các doanh nghiệp và của các khu dân cư của giai cấp tư sản”... Mô tả này tương tự như quan sát và phân tích của Ăngghen về mặt trái của các đô thị công nghiệp trong Tình cảnh giai cấp công nhân Anh. Hiện nay Liên Hợp quốc nhận định: “Quản lý đô thị đã trở thành một trong những thách thức phát triển quan trọng nhất trong thế kỷ XXI”(5). Theo đó, trong cuộc đấu tranh vì tiến bộ xã hội hiện nay, sát cánh cùng giai cấp công nhân là các tầng lớp cư dân đô thị và các nhóm lao động dịch vụ. Trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, GCCN không thể không quan tâm tới lực lượng xã hội to lớn này.

Cơ cấu giai cấp

Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng cách tổ chức xã hội hiện đại đã làm cơ cấu của GCCN hiện đại đa dạngtới mức nội hàm của nó liên tục phải điều chỉnh, mở rộng theo nhiều hướng như: theo lĩnh vực (công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ); theo trình độ công nghệ (công nhân áo xanh tức công nhân công nghiệp truyền thống; công nhân áo trắng  tức công nhân có trình độ đại học, cao đẳng chủ yếu làm công việc điều hành, quản lý sản xuất; công nhân áo vàng tức công nhân của các ngành công nghệ mới, công nhân áo tím tức công nhân dịch vụ - lao động đơn giản như gác cầu thang, vệ sinh đô thị...); theo sở hữu tư liệu sản xuất (công nhân có cổ phầnvà công nhân không có cổ phần); theo chế độ chính trị (công nhân ở các nước phát triển theo định hướng XHCN, ở các nước G7, ở các nước đang phát triển) v.v..

Vì vậy, đã có rất nhiều khái niệm về giai cấp lao động và có nhiều điểm khác nhau về nội hàm. Sự mở rộng nội hàm đã khiến khái niệm GCCN với các đặc điểm lao động và bị bóc lột sức lao động (được dùng từ thời Mác) là còn phù hợp trong thực tiễn hiện nay. Các tiêu chí, phẩm chất khác như: gắn liền với máy móc công nghiệp, lao động mang tính xã hội hóa, có tính tổ chức, kỷ luật và triệt để cách mạng, có tinh thần quốc tế và bản sắc dân tộc... trong thực tiễn là tương đối khó nhận diện.

Việc mở rộng nội hàm khái niệm dẫn đến nhiều vấn đề trong việc phân định các thành phần trong cơ cấu GCCN còn nhiều điểm chưa thống nhất: (1)Trí thức là người lao động, song có thực sự nên coi họ là bộ phận của GCCN hiện nay hay không? Thí dụ Trung Quốc đã ghép bộ phận trí thức vào GCCN. Song khái niệm GCCN hiện đại cũng thật khó bao chứa những nhóm lao động này, nếu không muốn nói tới nguy cơ là làm tan loãng, xóa nhòa GCCN; (2) Một giai cấp có nhiều nhóm, đội ngũ, tầng lớp với các bộ phận có trình độ giác ngộ khác nhau thì sự thống nhất, đoàn kết về ý chí và tổ chức sẽ diễn ra như thế nào? Đã có tình trạng người lao động công nghiệp cũng không tự coi mình là GCCN! Họ coi mình là “giai cấp trung lưu”, vừa làm thuê lại vừa “hữu sản” thông qua chế độ cổ phần...

Những vấn đề khách quan trên đặt ra nhu cầu bổ sung nhận thức mới về GCCN - giai cấp luôn phát triển cùng với sự phát triển của công nghiệp và cách mạng khoa học và công nghệ.  

2. Về sở hữu tư nhân và chế độ người bóc lột người

Mác nghiên cứu sở hữu tư nhân TBCN rất sâu sắc và đưa ra những dự báo về sự chấm dứt vai trò lịch sử của nó, do không còn phù hợp với tính chất xã hội của lực lượng sản xuất và tính chất bất công, phi nhân tính của bóc lột.     

Tổng kết nghiên cứu lý luận và thực tiễn của Việt Nam và nhiều nước khác (trên cơ sở lý luận của Mác và thực tiễn đổi mới cải cách) thừa nhận tính tất yếu, sự tồn tại lâu dài của sở hữu tư nhân cùng khả năng liên kết với các hình thức sở hữu khác và đóng góp của nó trong quá trình xây dựng CNXH. Ở nhiều nơi đã có tính đột phá, thể hiện trong việc khuyến khích sự phát triển kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực ngành nghề mà nhà nước không cấm. Vấn đề bóc lột sức lao động đã được nhìn nhận biện chứng hơn. Hiện nay người lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất đã có thêm nhiều lợi ích chứ không đơn thuần chỉ bị bóc lột sức lao động như thời Mác sống. Với những công nhân (như ởViệt Nam) xuất thân từ nông dân, họ có nghề nghiệp, kỹ năng lao động mới, thu nhập tăng hơn, được tiếp cận môi trường lao động hiện đại với phương thức lao động và quản lý mới... Người sử dụng lao động cũng phải chia sẻ bí quyết công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý, chấp nhận sự nguy hiểm của đồng vốn khi đầu tư v.v. chứ không chỉ quan tâm đến lợi nhuận. Nguyên tắc hai bên, các bên cùng có lợi là một yêu cầu khách quan và đã diễn ra trên thực tế(6). Nhà nước thu được thuế, tiếp cận với công nghệ mới, kinh tế thị trường và sản xuất hàng hóa hiện đại, qua đó mà phát triển sản xuất và “làm bạn, là đối tác” và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế thế giới.

Mác và Ăngghen cắt nghĩa sự hình thành sở hữu tư nhân bằng 2 nguyên nhân: phân công lao động và dư thừa của cải trên cơ sở của phát triển lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội đã đưa lại năng suất lao động ngày một cao và xuất hiện của cải dư thừa. Đây là điều kiện khách quan làm xuất hiện sự chiếm đoạt của cải ở một số người có quyền lực và sự phân hóa xã hội thành những giai cấp đối kháng. Sự hình thành nhà nướcvới tư cách là bộ máy cai trị và áp bức để duy trì quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế - quyền định đoạt quá trình phân phối sản phẩm sản xuất được Mác và Ăngghen coi như một nhân tố duy trì và làm phát triển sở hữu tư nhân.

Tuy nhiên, vai trò của giai cấp tư sản trong quản lýsản xuất và quản lý xã hội thì rõ ràng ở thời Mác và Ăngghen không thể có được luận cứ thực tiễn đầy đủ như hiện nay. Tuy đó là những yếu tố thuộc về quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, song thực tiễn hiện đại xác định rằng, nó cũng góp phần  hỗ trợ cho quá trình phát triển sản xuất và văn minh nhân loại và là nhân tố hợp lý cần được GCCN kế thừa (ở những mặt như kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất, kinh nghiệm sử dụng động lực lợi ích vật chất...) trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Mác cũng chưa tiên lượng được rằng, lao động bị tha hóa vẫn có thể tái diễn trong chế độ XHCN ở thời kỳ quá độ. Nguyên nhân của sự tha hóa vẫn bắt nguồn từ trình độ của lực lượng sản xuất. Thực tế của Việt Nam hiện nay cho thấy, cơ chế quản lý yếu kém và trình độ quản lý và quản lý xã hội bất cập cùng quan liêu, tham nhũng là nguyên nhân trực tiếp để lao động không được trả công xứng đáng. Điều nghịch lý là tình trạng này lại xuất hiện trong chế độ coi công hữu là nền tảng và đôi khi ngay trong thành phần kinh tế nhà nước.

Như vậy, trong quá trình phát triển của nhân loại, để xóa bỏ sở hữu tư nhân thì bên cạnh phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, làm cho “nhà nước trở thành nửa nhà nước” thì vai trò quản lý sản xuất và quản lý nhà nước cần được coi là nhân tố trực tiếp để hạn chế và xóa bỏ tận gốc tình trạng này.   

3. Về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và chủ nghĩa dân tộc  

Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen quan niệm rằng, “Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác là  trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản...”(7).Quan điểm này vẫn chưa được chứng minh thông qua thực tiễn cách mạng XHCN ở thế kỷ XX và đặc biệt là trong điều kiện phức tạp của chính trị thế giới hiện nay.

Chủ nghĩa quốc tế của GCCN đóng vai trò tích cực trong cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng XHCN và vai trò này đang tiếp tục phát huy trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay(8). Nhưng thực tế cách mạng giải phóng dân tộc trước đây và toàn cầu hóa hiện nay còn chỉ ra rằng “chủ nghĩa dân tộc còn là một động lực lớn” cho sự nghiệp giải phóng. Như vậy, một vấn đề có tính quy luật là: Tất cả các đảng cộng sản cầm quyền và các đảng đang đấu tranh để cầm quyền đều cần có tính dân tộc (không phải ở mức độ là “hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp” mà cần được coi là bản chất của đảng). Nhiệm vụ chính trị hàng đầu của đảng là phải giải quyết hài hòa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc.

Mác nêu nguyên tắc: “Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp vô sản không chỉ thể hiện bằng tinh thần, lời nói, “tình hữu nghị” suông... mà phải có “chức năng quốc tế”, phải có sự phối hợp hành động thực tế”(9). Nhưng Mác lại không có điều kiện thực tế để chiêm nghiệm chủ nghĩa quốc tế trong bối cảnh chính trị phức tạp hiện nay, khi mà chủ nghĩa quốc tế không hài hòa với lợi ích quốc gia. Và hiển nhiên cùng với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân như vậy sẽ xuất hiện “những hình thức tập hợp lực lượng mới”(10). Hiện thực này không có trong kinh điển Mác - Lênin nhưng lại tồn tại trong thực tiễn đương thời. Do đó cần có những bổ sung nhận thức về chủ nghĩa quốc tế hiện nay nhằm xử lý hài hòa mối quan hệ giữa chủ nghĩa quốc tế và lợi ích quốc gia, dân tộc. 

4. Về những điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội

- Điều kiện khách quan cho CNXH và phát triển rút ngắn

Khi nghiên cứu về triển vọng phát triển của chủ nghĩa cộng sản, Mác trừu tượng hóa hình thái TBCN như là hình thái duy nhất và quan hệ sản xuất thống trị kiểu TBCN đã phát triển đến giai đoạn tới hạn của nó. Tình thế của cách mạng XHCN theo dự kiến của Mác sẽ diễn ra ở các nước tư bản phát triển trình độ cao và đối với một số quốc gia, với những điều kiện nhất định, có thể bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội TBCN để xây dựng CNXH, thực hiện phát triển rút ngắn.

Nhưng cách mạng XHCN ở thế kỷ XX đã không nổ ra ở các nước TBCN phát triển, nơi mà lực lượng sản xuất xã hội hóa ở mức cao và quan hệ sản xuất tư nhân TBCN bộc lộ rõ tính bất cập của nó. Cách mạng XHCN ở thế kỷ XX đã chủ yếu diễn ra thông qua các cuộc cách mạng “kép”: từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới hoặc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến lên CNXH. Nó diễn ra ở những nước mà quan hệ sản xuất TBCN mới chỉ manh nha hoặc phát triển ở giai đoạn đầu.

Các cuộc cách mạng XHCN ở thế kỷ XX chủ yếu thực hiện theo phương thức phát triển rút ngắn. Trên thực tế, CNXH hiện thực đã được xây dựng không phải là kết quả của sự phủ định trực tiếp CNTB. Nó được thực hiện ở những nước CNTB kém phát triển hoặc chưa qua giai đoạn phát triển TBCN. Có nhiều nước đi lên CNXH từ tình trạng kinh tế lạc hậu, chế độ chính trị là phong kiến hoặc thực dân nửa phong kiến. Thành công ban đầu của việc xác lập quyền lực chính trị cùng với những hạn chế trong nhận thức về tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của cách mạng XHCN có thể là những tác nhân làm nảy sinh tư tưởng duy ý chí và sai lầm trong cách phát triển rút ngắn.

Các cuộc cải cách, đổi mới ở nhiều quốc gia đã xác nhận nhận thức mới về thực hiện phát triển rút ngắn là: không phải bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN hay toàn bộ hình thái kinh tế - xã hội TBCN mà chỉ bỏ qua từng phần (ở Việt Nam là bỏ qua việc xác lập chế độ TBCN); tiến thẳnglên CNXH nhưng kế thừa những thành tựu của CNTB để phát triển (như kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và một số vấn đề khác nữa...). Bản chất của nhận thức mới về kiểu phát triển rút ngắn để đi lên CNXH là vừa làm rõ tính chất khách quan - lịch sử tự nhiên của sự phát triển, vừa làm rõ tính chất chủ động lựa chọn để kế thừa những gì bỏ qua những gì.

- Vai trò của nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng CNXH 

Trong bối cảnh hiện nay, có nhiều điểm cần được bổ sung, phát triển lý luận về đảng cộng sản - nhân tố chủ quan quan trọng nhất trong sự nghiệp xây dựng CNXH. “Việc tổ chức giai cấp công nhân thành một chính đảng là cần thiết để bảo đảm thắng lợi của cách mạng xã hội và giành được mục đích cuối cùng của nó là thủ tiêu các giai cấp”(11).

Trong tất cả các nghiên cứu của mình, Mác đều thể hiện sự tin tưởng vào tính tất yếu, phát triển mạnh mẽ của chính đảng vô sản trong quá trình cách mạng. Mác tin tưởng vào sự phát triển của các đảng thông qua đấu tranh giai cấp và đấu tranh tư tưởng trong nội bộ để giữ vững lập trường của một đảng chân chính của GCCN. Nhưng Mác chưa có điều kiện lịch sử để nghiên cứu về những bất cập, hạn chế của các đảng khi cầm quyền như quan liêu, tham nhũng, thao túng quyền lực, xa rời lập trường của GCCN. 

Mác cho rằng những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào khác tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, vấn đề lợi ích của đảng viên với toàn thể giai cấp đã có nhiều biến đổi mà Mác chưa tiên lượng được. Mác chưa có điều kiện để nói về suy thoái chính trị - tư tưởng và đạo đức của một đảng cộng sản cầm quyền. Mác không có điều kiện lịch sử để chứng kiến sự biến dạng lý luận và tư tưởng trong một đảng cộng sản là như thế nào. Sự suy thoái ấy có thể làm biến dạng nền dân chủ XHCN, làm cho chính những người xây dựng CNXH cũng mắc phải các căn bệnh kiêu ngạo, chủ quan, duy ý chí, quan liêu và tham nhũng... Mác cũng chưa lường trước được những xung đột về quan điểm chính trị, bất đồng về tư tưởng, phân liệt về tổ chức giữa các đảng, các nước XHCN, tác động bất lợi đến đoàn kết quốc tế và sự phát triển lý luận về CNXH. Trong nhận thức hiện đại, suy thoái chính trị, tư tưởng của một đảng cộng sản cầm quyền và sự suy yếu của chủ nghĩa quốc tế vô sản là nguy cơ lớn nhất đối với triển vọng của CNXH. 

Mác tin rằng: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”(12). Nhưng Mác không có điều kiện thực tế để thấy rằng, đôi khi do cơ chế tổ chức và hoạt động, đảng đã lựa chọn lầm những nhân vật không tiêu biểu cho cả thực tiễn và lý luận, không là đại biểu trung thành cho lợi ích GCCN. Họ có thể lợi dụng sự “xơ cứng” của cơ chế tập trung dân chủ trong bầu cử để làm biến dạng dân chủ trong đảng. Cơ chế làm tha hóa con người, con người làm tha hóa tổ chức và chế độ là điều có thật. 

Những nhận định của Mác về các vấn đề liên quan tới sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa dù sao cũng là những “phán đoán nửa tiên nghiệm”, mang tính dự báo. Sinh thời, chính bản thân Mác và Ăngghen cũng đã nhiều lần điều chỉnh các nhận định của mình và khuyên hậu thế nên có tinh thần tiếp thu có phê phán khi đến với học thuyết của các ông. Phát hiện ra những điểm cần bổ sung điều chỉnh không phải là để phủ nhận lý luận CNXH khoa học mà là để tiếp tục hiện thực hóa nó một cách có lý trí trong điều kiện hiện nay. Bổ sung những nhận thức mới phù hợp với bối cảnh mới là yêu cầu tự nhiên của sự phát triển học thuyết Mác, theo đúng tinh thần khoa học và cách mạng của nó.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2016               

(1), (3) http:vanhoanghean.com.vn:“P.Druke: Thời đại biến đổi xã hội”, bản dịch của Nguyễn Quang A.

(2), (7), (9), (11), (12) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.600, 614, 484, 484, 614.

(4) C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd, t.2, tr.485.

(5) https:// baotintuc.vn: “Ngày dân số Thế giới11/7: Hơn một nửa dân số sống ở đô thị”, ngày 11-07-2014.

(6) Xem thêm,  GS,TS  Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên): Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010,  tr.51, tr.87-88, tr.292.

(8)Xem thêm: PGS,TS Nguyễn An Ninh, “Về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 859, 5-2014.   

(10) Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời báo chí quốc tế tại Philíppin về tình hình Biển Đông, Bản tin Thông tấn xã Việt Nam, 22-5-2014.

 

PGS, TS Nguyễn An Ninh

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền