Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý - nhận thức và thực tiễn
Thứ ba, 30 Tháng 10 2018 08:56
22341 Lượt xem

Quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý - nhận thức và thực tiễn

(LLCT) - Đất đai là tài nguyên thiên nhiên, là tài sản quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt và là nguồn lực quan trọng của đất nước. Nền kinh tế Việt Nam vận hành theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, đòi hỏi chúng ta phải có những chủ trương, chính sách đất đai đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn. Bài viết tập trung luận giải nội hàm và những vấn đề đặt ra về quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý nhằm đề xuất một số khuyến nghị quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai, bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.

1. Nhận thức quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý

Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của xã hội, bên cạnh loại hình sở hữu đặc trưng, thống trị, bao giờ cũng kế thừa những hình thức sở hữu tàn dư của các phương thức sản xuất trước đó khiến cho trong cùng một thời gian, ở cùng một nước, luôn cùng tồn tại nhiều loại hình sở hữu đan xen nhau. C.Mác viết: “Chúng ta đau khổ không những vì sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ. Ngoài những tai họa của thời đại hiện nay ra, chúng ta còn chịu đựng cả một loạt những tai họa kế thừa do các phương thức sản xuất cổ xưa lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với những quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra”(1). Đây là phương pháp luận để xem xét các loại hình sở hữu trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong mỗi giai đoạn lịch sử luôn tồn tại nhiều loại hình sở hữu được biểu hiện ra dưới nhiều hình thức sở hữu.

Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác lập chế độ sở hữu đất đai và có những chủ trương, chính sách đất đai cụ thể phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ trước năm 1959, có 2 hình thức sở hữu về đất đai: sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Giai đoạn 1959 - 1980, tồn tại chủ yếu 3 hình thức sở hữu về đất đai là Nhà nước, tập thể và tư nhân. Từ năm 1980 đến nay, quy định một hình thức sở hữu về đất đai là sở hữu toàn dân. Sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta bắt đầu được xác lập từ Hiến pháp 1980, thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp 1992, thời kỳ kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Điều 17 Hiến pháp năm 1992 quy định: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân. Điều 18 quy định: Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả(2).

Trong Hiến pháp 1992 đã có một số nội dung mới như: xác định rõ “Nhà nước giao đất cho tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”, trong khi Hiến pháp 1980 chỉ quy định cho “tổ chức và cá nhân được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình”; mở rộng quyền cho tổ chức, cá nhân có thể chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trong khi Hiến pháp 1980 chỉ quy định cho họ quyền tiếp tục sử dụng. Luật đất đai 1993 còn cụ thể hóa thêm thành 6 quyền (chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, góp vốn) và bổ sung nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được giao đất là phải nộp tiền sử dụng đất, ngoài đền bù cho người có đất bị thu hồi.

Những nội dung mới nêu trên thể hiện tư duy kinh tế đổi mới, đặt nền móng pháp lý chuyển việc quản lý đất từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Khẳng định chế độ sở hữu đất đai toàn dân, Nhà nước thay mặt nhân dân thực hiện quyền sở hữu và quyền quản lý tối cao. Tuy nhiên, đây không phải là chế độ sở hữu toàn dân một cấp độ sở hữu - sử dụng như trong Luật Đất đai 1987, mà là chế độ sở hữu đất đai toàn dân với đa cấp độ và hình thức, chủ thể sử dụng. Với quan niệm về chế độ sở hữu đất đai này, đất đai được “chủ thể hóa” có các chủ sử dụng cụ thể với các quyền và nghĩa vụ được luật pháp quy định. Đây là cơ sở để khắc phục tình trạng “vô chủ” về quan hệ đất đai trước đây. Khẳng định quyền sử dụng đất có giá trị, được pháp luật và cuộc sống thừa nhận, do đó giá trị của quyền sử dụng đất là một yếu tố cơ bản trong sự vận động của quan hệ đất đai. Khẳng định quyền sử dụng đất đai được tham gia trực tiếp vào cơ chế thị trường, là một yếu tố quan trọng hình thành thị trường bất động sản, một phương diện rất mới của quan hệ đất đai ở nước ta so với trước đây.

Theo quy định tại Điều 5 Luật Đất đai năm 2003 thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai như sau: quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất (sau đây gọi chung là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất); quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất; quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; định giá đất. Qua đó, Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai như sau: thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại; Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định, quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất(3).

Theo quy định của Luật Đất đai, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước đại diện giao đất cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức sử dụng đất ổn định, lâu dài. Như vậy, các chủ thể này không phải là chủ sở hữu đối với đất đai được giao, mà chỉ là người sử dụng (người có quyền sử dụng đất). Ngoài các quyền bình thường như chiếm hữu, sử dụng, người sử dụng đất còn có các quyền khác mang tính định đoạt như: cho thuê, thừa kế, chuyển nhượng, thế chấp, góp vốn. Như vậy, quyền sử dụng đất mà Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức không còn là quyền năng bình thường mà trở thành một loại quyền sở hữu hạn chế, vấn đề này chưa được cụ thể hóa trong Luật Đất đai 2003, nhưng trên thực tế đã diễn ra như vậy.

Điều 53 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Điều 54 quy định: Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ, Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai(4). Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 tiếp tục quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý(5). Điều này thể hiện sự vận dụng sáng tạo, đúng đắn các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đất đai vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta, bởi đất đai là tài sản cực kỳ quý báu, là một nguồn lực nội sinh quan trọng để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân sẽ bảo đảm cho thành phần kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, trên cơ sở đó giữ được định hướng XHCN. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân tạo khoản thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất, các loại thuế liên quan đến đất đai và các loại phí, lệ phí quản lý và sử dụng đất(6),... tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, các thành phần kinh tế và các vùng kinh tế phát triển, tạo cơ sở điều tiết, phân phối thu nhập, bảo đảm sự vận hành của nền kinh tế.

Theo Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép người sử dụng đất chuyển mục đích sử dụng đất đều là các hoạt động trao quyền sử dụng đất từ Nhà nước cho người sử dụng. Việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất nhằm bảo đảm cho đất đai được phân phối và phân phối lại cho các đối tượng sử dụng hợp pháp, đúng mục đích mà Nhà nước đã quy định, đạt hiệu quả cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Có thể thấy, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là một trong những chế định quan trọng nhất, thể hiện tính đặc thù của pháp luật đất đai Việt Nam. Chế định này ra đời trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

2. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn

Trong thực tế vừa qua có mâu thuẫn về quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nhưng quyền của đại diện chủ sở hữu, nhất là quyền định đoạt và quyền hưởng lợi từ đất đai chưa được định rõ; trong khi đó, người được Nhà nước giao đất (người sử dụng) tự coi như người chủ sở hữu, tùy tiện mua bán, chuyển nhượng. Trên thực tế, Nhà nước phải mặc cả với người sử dụng đất khi thu hồi đất sử dụng vào các mục đích công cộng và phát triển kinh tế - xã hội. Việc thu hồi đất gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp, dẫn đến nhiều vụ khiếu kiện liên quan đến việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư...

Việc quy định giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với doanh nghiệp, Nhà nước chủ yếu thực hiện theo cơ chế “xin - cho”. Thực chất là chưa chú trọng các yếu tố kinh tế của đất đai, chưa thực sự thấy được đất đai là hàng hóa đặc biệt trong cơ chế thị trường. Từ đó, việc giao đất không thu tiền sử dụng đất cũng tạo điều kiện cho tham nhũng, hối lộ gia tăng trong khi Nhà nước không thu được thuế cho ngân sách.

Công tác quản lý và sử dụng đất đai hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây nên nhiều bức xúc. Quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều bất cập, quy hoạch và thực hiện quy hoạch sử dụng đất chưa tốt, nhiều khu công nghiệp, dự án đầu tư, đất của cơ quan, doanh nghiệp chậm đưa vào khai thác sử dụng, gây lãng phí lớn. Chấp hành pháp luật đất đai chưa nghiêm, nhất là trong việc thực hiện quy hoạch, chuyển đổi mục đích và chuyển quyền sử dụng đất. Chậm nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ nhiều vấn đề lý luận về quản lý đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việc tháo gỡ các vướng mắc trong xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai cần có những đột phá nhằm ổn định chính trị - xã hội, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Những hạn chế, yếu kém trên có các nguyên nhân chủ yếu sau:

- Chính sách đất đai thay đổi qua nhiều thời kỳ; quản lý đất đai chuyển từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, làm cho đất đai từ là hiện vật trở thành nguồn lực, từ đó đặt ra nhiều vấn đề mới nhưng thiếu kiến thức và kinh nghiệm để xử lý.

-  Chưa giới định hợp lý, rõ ràng quyền sở hữu toàn dân, quyền quản lý nhà nước và quyền sử dụng của các tổ chức, cá nhân đối với đất đai; chưa minh định rõ các quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm giữa các chủ thể sở hữu, quản lý và sử dụng. Xác định Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đối với đất đai, nhưng chưa xác định rõ vai trò, trách nhiệm đại diện chủ sở hữu của Nhà nước đối với đất đai, chưa xác định rõ chủ thể cụ thể đại diện chủ sở hữu ở từng cấp, từng ngành. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng chưa phát huy tốt vai trò của nhân dân, chưa thực hiện tốt công khai, dân chủ trong việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về đất đai. Từ đó, ở chừng mực nhất định đã biến sở hữu toàn dân về đất đai trở thành sở hữu danh nghĩa, biến quyền đại diện chủ sở hữu của Nhà nước trở thành sở hữu hình thức và biến sở hữu đất đai trở thành sở hữu thực chất của một số cá nhân trực tiếp nắm quyền quản lý, định đoạt đối với đất đai. Những cá nhân này lợi dụng sơ hở cấu kết với các nhà đầu tư trục lợi, tiêu cực, tham nhũng, gây bất bình trong nhân dân và dẫn đến khiếu kiện kéo dài.

Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và đô thị hóa, từ một nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, đất đai ở cả nông thôn và thành thị được phân bổ sử dụng phân tán, manh mún, kém hiệu quả, không phù hợp yêu cầu phát triển sản xuất lớn, hiện đại... Do đó, đòi hỏi cần phải thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung và chuyển đổi công năng sử dụng đất trên phạm vi rộng, quy mô lớn. Mặt khác, Việt Nam thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, đòi hỏi việc phân bổ đất đai phải phù hợp với cơ chế thị trường và định hướng XHCN để bảo đảm việc khai thác sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả; nếu tiếp tục duy trì cơ chế hành chính, tập trung sẽ phát sinh quan liêu, tiêu cực, chuyên quyền; còn buông lỏng quá trình phân bổ đất đai để diễn ra tự nhiên theo cơ chế thị trường tự điều tiết thì quá trình tích tụ, tập trung sẽ diễn ra chậm chạp. Hơn nữa, đất đai ở Việt Nam qua nhiều thời kỳ có sự biến động, xáo trộn lớn, do đó, nếu thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai sẽ dẫn đến bất ổn chính trị xã hội; tự phát theo cơ chế thị trường tự do thì sẽ diễn ra chậm và nảy sinh nhiều vấn đề xã hội.

3. Một số khuyến nghị

Tài nguyên đất đai có hạn, nhưng nhu cầu sử dụng đất đai lại ngày càng gia tăng. Để quán triệt quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý; nâng cao tinh thần trách nhiệm của mọi tổ chức và cá nhân, đưa việc quản lý, bảo vệ và sử dụng đất đai vào quy chế chặt chẽ, khai thác tài nguyên đất hợp lý và có hiệu quả, đáp ứng tốt yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, đô thị hóa, phát triển đất nước nhanh và bền vững, cần tập trung thống nhất một số vấn đề sau:

Một là, nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn lực đất đai.

Cần nhận thức rõ đất đai là tài nguyên quốc gia khan hiếm, vô cùng quý giá, là nguồn vốn nội lực to lớn của đất nước, là tư liệu sản xuất đặc biệt. Các quan điểm, chủ trương, chính sách và pháp luật về đất đai phải nhằm mục tiêu quản lý chặt chẽ và khai thác, sử dụng đất tiết kiệm, đạt hiệu quả tối ưu. Điều đó đòi hỏi phải có quan điểm, chính sách đúng đắn, chú ý đầy đủ tới các mặt kinh tế, chính trị, xã hội và quốc phòng, an ninh; phải xây dựng quy hoạch, kế hoạch phù hợp, khoa học và quản lý, sử dụng đúng quy hoạch, kế hoạch; phải phân phối hợp lý, đáp ứng yêu cầu tích tụ và tập trung đất ngày càng cao; phải bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư,  người sử dụng, trong đó phải đặc biệt chú ý đến lợi ích của xã hội và người sử dụng. Cần thấy rằng, nhân dân bất bình, khiếu kiện về đất đai không chỉ vì quyền lợi của họ không được tôn trọng mà còn vì đất đai được tập trung, thâu tóm vào tay một số tư nhân đầu cơ, trục lợi dẫn tới để đất đai bỏ không hoang phí, hoặc Nhà nước quy hoạch treo không sử dụng.

Hai là, nhận thức rõ vị trí, vai trò của sở hữu toàn dân về đất đai.

Cần nhận thức rõ, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Điều đó là phù hợp với bản chất của đất đai là lãnh thổ, là tài nguyên và tài sản chung vô cùng quý giá của quốc gia, được tạo nên bởi công sức và xương máu của toàn dân tộc qua nhiều thế hệ. Đây là mô hình vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển. Đa dạng hóa, tư nhân hóa sở hữu đất đai có thể gây ra những rối ren chính trị - xã hội khó lường, đe dọa mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

Vai trò của chủ sở hữu toàn dân cần được chế định cụ thể, rõ hơn; để đảm bảo chủ sở hữu đất đai là toàn dân, những trường hợp quan trọng như phân bổ sử dụng đất có ảnh hưởng lớn, cho nước ngoài thuê đất để đầu tư với quy mô lớn, hoặc ban hành những chính sách lớn về đất đai... cần phải trưng cầu ý dân. Mặt khác, mỗi người dân cụ thể phải được quyền sử dụng và hưởng lợi ích từ đất; người sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp được giao đất lần đầu không thu tiền sử dụng đất với diện tích phù hợp từng địa phương hoặc được chuyển nhượng không phải nộp thuế; đồng thời phải có nghĩa vụ đầu tư bồi bổ đất đai, bảo vệ và sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả.

Ba là, cần làm rõ nội hàm về quyền đại diện chủ sở hữu của Nhà nước đối với đất đai, cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý, sử dụng đất.

Cần xác định rõ, Quốc hội là cơ quan đại diện sở hữu toàn dân và Chính phủ là cơ quan quản lý việc sử dụng đất. Theo đó, Quốc hội ban hành pháp luật về đất đai, quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước; quyết định việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; quyết định khung giá đất và việc sử dụng nguồn tài chính thu được từ đất; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước; Quốc hội cũng phải có nghĩa vụ bảo đảm đầu tư nâng cao chất lượng, giá trị và sử dụng có hiệu quả quỹ đất quốc gia.

Bốn là, hoàn thiện cơ chế giao đất, cho thuê đất; chế định pháp lý về trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể sử dụng đất.

Đến nay, quyền của chủ thể sử dụng đất đã được pháp luật quy định khá cụ thể. Điều 166 Luật Đất đai năm 2013 quy định quyền chung của người sử dụng đất gồm: quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước phục vụ việc bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp; được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất nông nghiệp; được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp về đất đai của mình; được bồi thường khi Nhà nước thu hồi theo quy định của pháp luật; khiếu nại, tố cáo, khởi kiện những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai(7). Tuy nhiên, còn thiếu các chế tài quy định rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể sử dụng, như: chủ thể sử dụng đất được quyền tham gia góp ý kiến vào việc quy hoạch sử dụng đất, được công khai phổ biến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền chính thức thông qua; được giao quyền sử dụng đất lâu dài không thời hạn, chỉ có thời hạn đối với đất thuê; được giao sử dụng không hạn mức, nhưng phải nộp thuế sử dụng đất đối với phần diện tích vượt quy định như hiện nay; được quyền cho thừa kế; được quyền bảo vệ lợi ích chính đáng từ đất, bảo đảm lợi ích thu được phải lớn hơn và chỗ ở từ bằng đến tốt hơn trước khi bị thu hồi. Thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất khi sắp xếp lại trụ sở, cơ sở làm việc thuộc sở hữu nhà nước để chuyển sang mục đích phát triển kinh tế.

Cơ chế giao đất, cho thuê đất phải bảo đảm công khai, minh bạch, thu hẹp các đối tượng được giao đất và mở rộng đối tượng được thuê đất(8). Đất đã được giao chỉ bị thu hồi theo quyết định hành chính nhằm mục đích công ích, hoặc phục vụ những dự án có ý nghĩa lớn đối với quốc kế dân sinh, khi HĐND tỉnh quyết nghị, nhưng phải được bồi thường, hỗ trợ thỏa đáng để đảm bảo có cuộc sống từ bằng đến tốt hơn trước khi bị thu hồi. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế khuyến khích, hỗ trợ tích tụ, tập trung ruộng đất để phát triển nông nghiệp quy mô lớn, công nghệ cao, gắn với bảo đảm việc làm và thu nhập bền vững cho nông dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn.

Năm là, tăng cường quản lý nhà nước về đất đai.

Hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng của bộ máy quản lý nhà nước về đất đai; cải cách thủ tục hành chính về đất đai thường xuyên, cập nhật và công khai; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các tổ chức, cá nhân sử dụng đất đai; nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ quản lý nhà nước về đất đai. Đồng thời, giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư trong công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; giải quyết dứt điểm tình trạng khiếu kiện kéo dài; tiếp tục thể chế rõ hơn vai trò giám sát của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2018

(1) Quốc hội: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

(2) Quốc hội: Hiến pháp năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.

(3) Quốc hội: Luật Đất đai 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

(4) Quốc hội: Luật Đất đai 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.

(5), (7) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.

(6), (8) Hội đồng Lý luận Trung ương: Tổ chức thực hiện pháp luật đất đai của cán bộ quản lý nhà nước trên địa bàn cấp huyện ở Việt Nam hiện nay, chủ nhiệm dự án GS, TS Lê Hữu Nghĩa, Hà Nội, 2016.

PGS, TS Hoàng Thị Bích Loan

Viện Kinh tế chính trị học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền