Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Biện chứng cái chủ quan và cái khách quan trong tư tưởng của V.I.Lênin
Thứ tư, 25 Tháng 12 2013 16:26
35168 Lượt xem

Biện chứng cái chủ quan và cái khách quan trong tư tưởng của V.I.Lênin

(LLCT)- Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra tám phương hướng cơ bản để xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN. Đảng nhấn mạnh: "Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa"(1). Đặt trên một nền tảng sâu và rộng hơn, thì thực chất đây là giải quyết mối quan hệ giữa khách quan (phát triển kinh tế) với chủ quan (chính trị, đường lối chính trị). Cụ thể hơn, đây cũng là vấn đề định hướng chính trị đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.

Trước Lênin, khi khám phá ra các quy luật phát triển của xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh đầy thuyết phục vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng. Bằng cách đó, các ông đã luận chứng cho cách tiếp cận duy vật vấn đề mối tương quan giữa cái chủ quan và cái khách quan. Tuy nhiên, vào thời của mình, do hoàn cảnh khách quan mà Mác và Ăngghen đã chủ yếu chú ý luận chứng cho vai trò quyết định của các điều kiện vật chất trong sự phát triển của xã hội. Thời Mác và Ăngghen, cuộc cách mạng XHCN vẫn còn là công việc của tương lai khá xa, trong xã hội tư bản thời đó chưa hình thành đầy đủ các tiền đề kinh tế cần thiết cho bước chuyển từ CNTB lên CNXH.           

Trong các nghiên cứu và hoạt động chính trị của mình, Lênin luôn tuân thủ học thuyết Mác về sự thống nhất cái chủ quan và cái khách quan. Người viết: “Chủ nghĩa Mác khác tất cả các lý luận xã hội chủ nghĩa khác ở chỗ nó kết hợp một cách tài tình tính sáng suốt khoa học hoàn toàn trong việc phân tích tình hình khách quan và sự tiến hóa khách quan, với việc thừa nhận một cách hết sức dứt khoát tác dụng của nghị lực cách mạng, tính sáng tạo cách mạng và tính chủ động cách mạng của quần chúng, - và dĩ nhiên là cả của những cá nhân, những tập đoàn, những tổ chức và những chính đảng biết phát hiện ra và thực hiện được sự liên hệ với những giai cấp này hoặc giai cấp khác”(2).           

1. Lênin hiểu điều kiện khách quan là những hoàn cảnh không phụ thuộc vào “ý chí và ý thức, mơ ước và lý thuyết của những cá nhân này hay khác” nhưng lại là cơ sở hoạt động của con người, xác định xu hướng, tính chất và các nhiệm vụ phát triển xã hội, chế định ý chí và các dự định của các chủ thể hành động lịch sử, trực tiếp xác định nội dung hoạt động của họ, đặt ra trước con người những nhiệm vụ xác định và cung cấp phương tiện cho việc giải quyết chúng. Lênin đưa vào khái niệm điều kiện khách quan lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất như là cơ sở vật chất của sự phát triển xã hội, được định hình như kết quả lao động của nhiều người, và do vậy, không phụ thuộc gì vào ý thức và ý chí của từng thế hệ riêng rẽ. Các điều kiện khách quan còn bao gồm cả chế độ chính trị - xã hội, tương quan giữa các giai cấp và lực lượng chính trị trong nước và trên trường quốc tế. Mối liên hệ bên trong giữa các nhân tố khách quan được phản ánh trong các quy luật phát triển xã hội. Như vậy, Lênin không đồng nhất các điều kiện khách quan chỉ riêng với sản xuất vật chất. Chẳng hạn, khi xây dựng khái niệm tình huống cách mạng ông đưa vào các điều kiện khách quan của nó những dấu hiệu vốn không trực tiếp thuộc về tồn tại vật chất.        

Lênin đã luận chứng toàn diện cho luận điểm mácxít về vai trò của nhân tố chủ quan trong lịch sử. Đối với Lênin, nhân tố chủ quan là hành trang tinh thần và tư tưởng của mọi người, sự chín chắn chính trị, tính tự giác và tính có tổ chức của họ hướng đến đạt những mục tiêu nhất định. Nhân tố chủ quan phản ánh trước hết những lợi ích của các giai cấp xã hội. Nội dung của nó mang tính giai cấp. Lênin đã phân tích sâu sắc các thành tố cơ bản của nhân tố chủ quan vốn biểu hiện các mục tiêu, ý đồ của chủ thể sáng tạo lịch sử. Thuộc tính cố hữu của nhân tố chủ quan là tính có tổ chức, - là sự kết tinh cao nhất của ý thức giai cấp. Lênin viết: “Chính là để cho quần chúng của một giai cấp nhất định có thể học tập để hiểu rõ những lợi ích của họ và địa vị của họ, học tập để biết cách thực hiện chính sách của họ, chính vì thế mà cần ngay lập tức và với bất kỳ giá nào phải có một tổ chức của những phần tử tiên tiến của giai cấp ấy”(3).     

Thành tố quan trọng của nhân tố chủ quan là trạng thái tâm lý của những người tham gia vào hoạt động cải biến xã hội. Lênin viết: “còn cách mạng - trong những lúc mà tất cả những tài trí con người được đặc biệt phát huy và đặc biệt khẩn trương - lại là sự nghiệp của ý thức, ý chí, nhiệt tình và trí tưởng tượng của hàng chục triệu người được cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhất khích lệ”(4). Ngoài ra, các trạng thái đạo đức của con người (tính vững chãi, kiên định) cũng là những thành tố thuộc cái chủ quan. Tuy nhiên, cũng không thể dựa vào đó mà quy nhân tố chủ quan chỉ về ý thức con người, về cái tinh thần. Cách hiểu quá hẹp như vậy làm nghèo đi nội dung thực tế của nhân tố đó, hạn chế tính hiệu lực của nó. Ý thức và tính tự giác là những thành phần không tách rời của nhân tố chủ quan, thể hiện trong hoạt động thực tiễn của quần chúng, trong chính hoạt động của con người. “Chúng ta căn cứ vào cái gì để xét đoán “những tư tưởng và tình cảm” thực của những cá nhân có thực? - Lênin hỏi: "Tất nhiên, căn cứ đó chỉ có thể là những hành động xã hội của các cá nhân ấy, tức là những dữ kiện xã hội"(5). Lênin nhấn mạnh tính định hướng hành động thực tiễn của nhân tố chủ quan khiến cho nó có sức sống, gắn kết tất cả các thành tố của nó thành một chỉnh thể thống nhất. Tính tự giác tự thân mà không có hoạt động thực tiễn của con người sẽ không mang lại kết quả.   

Cũng là không đúng nếu coi hoạt động tự giác của con người dựa trên tri thức về các quy luật phát triển xã hội mới là nhân tố chủ quan. Lênin đưa vào khái niệm nhân tố chủ quan cả hoạt động tự phát của quần chúng. Lênin viết, Công xã Pari đã “nảy sinh một cách tự phát, không ai chuẩn bị nó một cách có ý thức và có kế hoạch cả”(6). Chú ý đến hoạt động tự phát trong thành phần của nhân tố chủ quan, nhưng phải hiểu: nấc thang phát triển cao nhất của nhân tố chủ quan là hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân, của các giai cấp, của các tập đoàn xã hội, của các chính đảng tuân theo các quy luật phát triển xã hội đã được nhận thức và nhờ đó mà sơ bộ từ trước đã có thể thấy những kết quả chính yếu do các cải biến xã hội được thực hiện mang lại.     

2.Lênin vạch ra sự tương tác biện chứng phức tạp giữa cái chủ quan và cái khách quan. Vai trò hàng đầu trong sự phát triển lịch sử - xã hội thuộc về các điều kiện khách quan vốn quyết định tính chất và chiều hướng chủ yếu của các quá trình xã hội. Nhân tố chủ quan, xét về nguồn gốc và các chức năng - là sản phẩm của các điều kiện khách quan. Những tình cảm, tư tưởng, ý chí, mong muốn đa dạng đều được xác định bởi các điều kiện khách quan. Chẳng hạn, tính tự phát, tính thiếu tổ chức của các cuộc nổi dậy nông dân chống áp bức và bóc lột phong kiến là kết quả của sự phân tán, manh mún về kinh tế, trong khi đó, tính tự giác, tính tổ chức và tính cách mạng của giai cấp công nhân được lý giải trước hết bởi vị trí của nó trong hệ thống sản xuất TBCN.

Tuy nhiên, nhân tố chủ quan không phải là hệ quả tự nhiên của các điều kiện khách quan. Nó cũng có tính độc lập tương đối, có các tính quy luật phát triển, lôgich riêng của mình và chỉ xét đến cùng mới bị quyết định bởi các điều kiện khách quan. Trong lịch sử đã có những trường hợp khi các tiền đề khách quan của sự cải biến xã hội đã có rồi mà nhân tố chủ quan còn chưa chín muồi. Chẳng hạn, việc có tình huống cách mạng ở nước Đức vào năm 1918 nhưng đã không dẫn đến thắng lợi của giai cấp vô sản, bởi lẽ, như Lênin viết “trong thời gian khủng hoảng, công nhân Đức không có một chính đảng thật sự cách mạng”(7). Đó là do thiếu nhân tố chủ quan, chỉ có riêng những điều kiện khách quan là chưa đủ để thực hiện những cải biến cách mạng căn bản, các điều kiện đó chỉ biểu hiện như những khả năng hiện thực. Chính nhân tố chủ quan đã chín muồi mới là lực lượng hiện thực hóa khả năng đã có sẵn trong các điều kiện khách quan. Do vậy, Lênin dành nhiều nỗ lực để vạch ra nhân tố chủ quan của cách mạng trong sự thống nhất biện chứng với các yếu tố khách quan.      

Khi đã có các điều kiện khách quan cần thiết thì nhân tố chủ quan giữ vai trò quyết định trong các cải biến xã hội. Lênin viết: “Trong lúc các nước tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư bản đang tan rã, trong lúc giai cấp đó tuyệt vọng và gặp cơn khủng hoảng, thì chỉ có nhân tố chính trị đó mới là nhân tố quyết định... Trong trường hợp này, cái quyết định chính là sự tự giác và tính kiên quyết của giai cấp công nhân. Nếu giai cấp công nhân sẵn sàng hy sinh, nếu nó tỏ ra có khả năng dốc toàn lực ra thì nhiệm vụ khắc được giải quyết... Tinh thần quyết tâm của giai cấp công nhân, ý chí sắt đá của nó trong việc thực hiện khẩu hiệu “Chúng ta thà chết chứ không chịu khuất phục!” không phải chỉ là nhân tố lịch sử mà còn là nhân tố quyết định, nhân tố chiến thắng nữa”(8).     

Lênin không ít lần nhấn mạnh rằng, vai trò cải biến, tích cực của nhân tố chủ quan có thể biểu hiện chỉ khi nào, nó, thứ nhất, dựa trên những điều kiện khách quan đã chín muồi, xuất phát từ chúng; thứ hai, được chỉ đạo bởi các các quy luật phát triển xã hội; thứ ba, được củng cố thêm bởi các khả năng vật chất cần thiết; thứ tư, kịp thời, đúng lúc thể hiện hiệu lực của mình. Sự nhạy bén thiên tài đã giúp Lênin chọn lựa thời điểm cho những thay đổi cần thiết. Ông đã chính xác khi lựa chọn thời điểm cho cuộc khởi nghĩa vũ trang vào tháng 10-1917. Theo Người, chậm trễ hơn nữa là mất hết.      

3. Ngoài việc xây dựng học thuyết hoàn chỉnh về các bộ phận và sự chín muồi của nhân tố chủ quan trong cách mạng XHCN ở thời kỳ giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, Lênin còn phân tích sâu sắc biện chứng của cái khách quan và cái chủ quan trong quá trình xây dựng CNXH. Ông luận chứng cho luận điểm mới về nguyên tắc rằng, sau khi giai cấp công nhân nắm quyền lãnh đạo chính trị và thủ tiêu chế độ bóc lột thì giữa các nhân tố khách quan và chủ quan sẽ có một sự tương thích xác định, sự phát triển của chúng sẽ diễn ra đồng đều hơn. Cơ sở của sự phù hợp như thế là việc xác lập sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, hoạt động kiến tạo của nhà nước XHCN, vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản. Xã hội XHCN không phải phát triển một cách tự phát, mà là một cách có kế hoạch, điều này có cơ sở từ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, sự nhận thức các tính quy luật của công cuộc kiến thiết XHCN. Đây cũng chính là cội nguồn của sự thống nhất cái chủ quan và cái khách quan dưới CNXH.           

Việc thiết lập sự cân bằng giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan có nghĩa là hoạt động của con người ngày càng trở thành hình thức hiện thực hóa phù hợp hơn với các quy luật khách quan của công cuộc xây dựng CNXH. Các quá trình xã hội phụ thuộc hơn vào tính tự giác và tính tổ chức của con người. Mọi người, được trang bị tri thức về các quy luật khách quan, sẽ hướng toàn bộ quá trình xã hội vào việc thực hiện các mục đích đặt ra từ trước một cách tự giác và có kế hoạch. Lênin nói rằng, tính kế hoạch trong sự phát triển xã hội là sự cân đối được tự giác đảm bảo. Điều đó có nghĩa là con người nhận thức trước trong các kế hoạch của mình những đòi hỏi của các điều kiện khách quan và của khả năng thực hiện chúng. 

Dĩ nhiên, việc thiết lập sự tương thích giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan diễn ra không phải tức thì, mà đạt được nhờ kết quả cuộc đấu tranh kiên trì và dài lâu của giai cấp công nhân, của tất cả nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Sự thống nhất giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan bắt nguồn từ việc các lợi ích của giai cấp công nhân, của tất cả những người lao động trùng với các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Lênin viết, sự phát triển lực lượng sản xuất “tự hướng tới chính cái mục đích mà những người xã hội chủ nghĩa đã tự đề ra cho mình”(9).            

Biện chứng của cái khách quan và cái chủ quan trong thời kỳ xây dựng CNXH quy định các biện pháp giải quyết các nhiệm vụ kiến thiết, trong đó phải tính đến cả sự chín muồi của các điều kiện kinh tế - vật chất, trình độ tự giác và tính tổ chức của quần chúng lao động, tức là nhân tố chủ quan. Ở đây cái khách quan chủ yếu và về cơ bản vẫn xác định xu hướng và tính chất của sự phát triển lịch sử, tạo ra những khả năng và tiền đề hiện thực để giải quyết các nhiệm vụ xã hội đã được lịch sử xác định, quy định nội dung và giới hạn của hành động hiệu quả của nhân tố chủ quan. Ý chí, lòng nhiệt tình, quyết tâm của con người, nếu chúng bị tách khỏi các điều kiện khách quan, không tính đến các yêu cầu của các quy luật khách quan đều dẫn đến chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.        

Lênin viết: “Chúng ta đã không ra lệnh lập tức thực hành chủ nghĩa xã hội trong toàn bộ nền công nghiệp của nước ta, vì chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thiết lập và đứng vững được khi nào giai cấp công nhân đã biết quản lý và khi nào quần chúng công nhân đã củng cố được uy tín của mình. Không thế, chủ nghĩa xã hội chỉ là một nguyện vọng mà thôi”(10). Mức độ tự giác, có tổ chức của giai cấp công nhân và toàn thể những người lao động lại quyết định các hình thức và tính chất việc giải quyết các nhiệm vụ trong quá trình xây dựng CNXH.   

Lênin yêu cầu, các nhiệm vụ đặt ra cần phải gần gũi với quần chúng nhân dân, phải được họ đón nhận như những nhiệm vụ riêng của mình. Trong trường hợp ngược lại đảng cộng sản sẽ bị đe dọa bởi hiểm họa xa rời quần chúng. Dĩ nhiên, như Lênin đã chỉ ra, đảng không phải thụ động thích ứng với trình độ ý thức của quần chúng. Đảng cần giáo dục, nâng đỡ ý thức cho họ, thuyết phục về sự cần thiết phải giải quyết các nhiệm vụ đã đặt ra.        

Lênin chỉ rõ rằng, xây dựng CNXH là hoạt động tích cực, tự giác của con người, được quy định bởi các nhu cầu, lợi ích, khát vọng của họ như động lực lôi kéo mạnh mẽ sự phát triển xã hội. Chính các lợi ích của con người nằm ở cả các điều kiện khách quan, lẫn của nhân tố chủ quan.  

Lênin cũng đề cao ý nghĩa to lớn của việc kết hợp đúng đắn sự khuyến khích vật chất và khích lệ tinh thần đối với lao động như là yếu tố quan trọng đảm bảo sự thống nhất các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Khuyến khích vật chất không mâu thuẫn với khích lệ tinh thần, mà còn thúc đẩy sự phát triển và thể hiện của chúng. Khuyến khích vật chất và động viên tinh thần bổ sung nhau và cùng tích cực thúc đẩy tinh thần và thái độ lao động hăng say, tích cực.   

Tính hiệu quả và hiệu lực của nhân tố chủ quan dưới CNXH trực tiếp thể hiện trong việc quản lý các quá trình xã hội. Trong một loạt các tác phẩm viết sau Cách mạng Tháng Mười, Lênin đã xây dựng cả một chương trình chỉnh thể về quản lý xã hội theo khoa học dưới CNXH. Cơ sở của nó là các nguyên tắc tập trung dân chủ, tuyển chọn người và kiểm tra việc thực hiện, thu hút quần chúng vào công việc quản lý xã hội và nhà nước, trong đó ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống quan liêu, lãng phí...        

Sự phát triển nền dân chủ XHCN, sự tăng cường kiểm soát từ phía đông đảo quần chúng nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước và các quan chức cũng có ý nghĩa to lớn cho việc hoàn thiện nhân tố chủ quan. Sự thảo luận chung rộng rãi của những người lao động về những vấn đề và đạo luật quan trọng nhất của nhà nước là phương tiện cực kỳ quan trọng để phát triển ý thức xã hội, để đạt tới ý chí thống nhất. Lênin viết: “Bằng phương pháp đó, chúng ta nâng cao được sự giác ngộ... chính bằng phương pháp đó chúng ta đã thảo ra được các quyết định chung và rèn đúc được ý chí chung”(11).           

Hiện nay, Đảng và nhân dân ta đang giải quyết những nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và của toàn bộ nền kinh tế. Những năm gần đây đầu tư cơ bản rất lớn. Tuy nhiên, các thành tựu khoa học và kỹ thuật còn chậm được áp dụng vào sản xuất. Nhân tố chủ quan, đặc biệt là trình độ và các hình thức quản lý, điều hành trong lĩnh vực sản xuất vật chất chưa tương thích hoàn toàn với lực lượng sản xuất xã hội đã có sự lớn mạnh vượt bậc.          

Sự gia tăng ý nghĩa, vai trò của nhân tố chủ quan trong điều kiện định hướng XHCN được quy định một cách khách quan bởi sự tăng cường vai trò của quần chúng nhân dân như là chủ thể của quá trình lịch sử. Một mặt, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất chính của xã hội, là điều kiện khách quan không thể thiếu của sự phát triển của nó, mặt khác, chính họ sáng tạo ra lịch sử, tính tích cực, tính tự giác, tính tổ chức của họ cấu thành nội dung quan trọng nhất của nhân tố chủ quan.

Đảng Cộng sản Việt Nam được dẫn dắt bởi học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh “thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”(12) nhằm chuẩn bị các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, đảm bảo cho sự phù hợp với nhau để giải quyết thành công các nhiệm vụ xây dựng đất nước hiện nay.           

Tuân theo tư tưởng của Lênin về biện chứng của cái khách quan và cái chủ quan là một phương pháp luận giúp Đảng ta nhận thức được sâu sắc hơn những thời cơ, thuận lợi, cũng như những thách thức, khó khăn và đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2012

(1),(12), ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.72-73, 89.           

(2)V.I.Lênin: Toàn tập, t.16, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980, tr.29.     

(3) Sđd: t.24, tr.51.     

(4) Sđd: t.41, tr. 101.  

(5) Sđd: t.1, tr.531.     

(6) Sđd: t.20, tr.256    

(7) Sđd: t.44, tr.107.   

(8),(9),(11) Sđd: t.40, tr.289, 359, 359.          

(10) Sđd: t.37, tr.139. 

 

PGS,TS Nguyễn Anh Tuấn

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

 

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền