Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Cách tiếp cận trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay
Thứ năm, 20 Tháng 3 2014 13:43
3541 Lượt xem

Cách tiếp cận trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay

(LLCT) - Nghiên cứu mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là vấn đề vô cùng phức tạp và khó khăn, bởi quan niệm về kinh tế và chính trị cho đến nay chưa phải đã có tiếng nói chung. Chính vì vậy, việc tìm ra cách tiếp cận phù hợp cho nghiên cứu sẽ là chìa khóa cho vấn đề. 

1. Cách tiếp cận triết học - chính trị

Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phản ánh đậm nét tính triết học - chính trị của vấn đề. Từ phương diện triết học, theo lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, về bản chất, kinh tế là tổng hòa các quan hệ sản xuất tạo nên kết cấu kinh tế - xã hội, là hoạt động sáng tạo ra của cải vật chất, thuộc cơ sở hạ tầng; còn chính trị là tổng hòa các quan hệ giai cấp, dân tộc trong việc giành, giữ, tổ chức, sử dụng quyền lực nhà nước, quản lý các quá trình kinh tế - xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. Trong mối quan hệ này thì kinh tế quyết định chính trị, chính trị ra đời từ chính sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, chính trị có tính độc lập tương đối, có quy luật vận động riêng nội tại, tác động trở lại kinh tế theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.

Về vai trò của kinh tế đối với chính trị, Lênin đã khẳng định: “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”, “là kinh tế cô đọng lại”. Sự khẳng định này cũng chính là sự khẳng định tính thứ hai của chính trị so với tính thứ nhất của kinh tế. Rằng, chính trị chỉ là sự phản ánh, phản ánh tập trung nhất, bản chất nhất của kinh tế - chính trị thực chất có tính kinh tế. Khi cơ sở kinh tế biến đổi, chính trị phải biến đối theo để phản ánh đúng cơ sở kinh tế, phù hợp với kinh tế để tạo được môi trường tốt nhất cho kinh tế phát triển theo đúng quy luật khách quan. Xây dựng, phát triển chính trị, thực chất là xây dựng hoàn thiện nhà nước có năng lực phát triển và điều hành kinh tế. Điều đó cũng có nghĩa, chính trị phải được xây dựng trên cơ sở kinh tế, không được thoát ly những đặc trưng và những nhiệm vụ kinh tế của xã hội.

Đồng thời với việc thừa nhận tính thứ nhất của kinh tế, Lênin cũng cho rằng “chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”. Khẳng định đó của Lênin đã nhấn mạnh tính độc lập tương đối và vai trò tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế thông qua sức mạnh tổng hòa của các yếu tố, từ tư duy chính trị, quan điểm, đường lối chính trị đến thể chế chính trị, tập trung ở hệ thống chính trị, ở cơ chế, chính sách và khái quát là ở văn hóa chính trị của dân tộc, giai cấp và của giới tinh hoa. Một nền chính trị đúng đắn, khoa học, tiến bộ, phù hợp với cơ sở kinh tế của xã hội hiện tại sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển, làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội. Ngược lại, nếu chính trị sai lầm, trì trệ, thiếu khoa học, không phù hợp với thực tiễn kinh tế thì nó sẽ là lực lượng kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm chí đẩy kinh tế vào khủng hoảng, và hậu quả đi kèm tất yếu là mất ổn định chính trị - xã hội và trong tầng sâu của nó là uy hiếp sự tồn vong của chế độ và quyền lực của đảng cầm quyền.

Do đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cần quán triệt và vận dụng sáng tạo lý thuyết của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ tác động qua lại giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Từ đó tìm ra bản chất của mối quan hệ tương tác giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cho phù hợp với quy luật, tránh được chủ quan duy ý chí, đồng thời cũng khắc phục được tình trạng giáo điều, bảo thủ trì trệ.

2. Cách tiếp cận hệ thống

Trong xã hội hiện đại, hệ thống xã hội bao gồm bốn lĩnh vực, bốn tiểu hệ thống: kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa.

Khi xã hội loài người xuất hiện, trong đời sống xã hội chỉ có hai lĩnh vực cơ bản là kinh tế và xã hội, tương ứng với mối quan hệ cơ bản là sản xuất - tiêu dùng. Cùng với sự phát triển của sản xuất, chính trị ra đời là kết quả, đồng thời là sự phản ánh trình độ phát triển sản xuất. Sau đó, chính trị dần trở thành lực lượng “đứng ngoài”, “đứng trên” sản xuất, chỉ huy sản xuất, quyết định sản xuất. Và, theo tiến trình phát triển của kinh tế - xã hội, chính trị cũng biến đổi phù hợp với sản xuất. Chừng nào không có sự phù hợp hay tương thích, khi đó kinh tế lâm vào khủng hoảng, trì trệ. Ngược lại, nếu kinh tế không là cơ sở cho phát triển chính trị, thì chính trị, xã hội rơi vào tình trạng bất ổn. Bởi vậy, đổi mới mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị chính là “tìm lại”, trở về với sự phù hợp, sự tương thích vốn có giữa chính trị và kinh tế. Tất nhiên sự phù hợp này nhất thiết phải được đặt trong quan hệ với xã hội và văn hóa, bởi chính trị càng hài hòa với xã hội và càng thấm đậm chất văn hóa thì càng có cơ hội và điều kiện phù hợp với kinh tế.

Bên cạnh đó, trong lý thuyết hệ thống còn chỉ rõ, mỗi yếu tố tham gia vào hệ thống lại được xác lập bởi một tiểu hệ thống. Bởi thế, để nhận thức được bản chất, nội dung của mối quan hệ này, cần thiết phải nhận thức được những dạng thức biểu hiện khác nhau của nó. Thông qua việc đánh giá đúng bản chất, nội dung, xu hướng vận động và định hướng giải pháp giải quyết của các mối quan hệ thứ cấp mà nhận thức bản chất, nội dung của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trong các mối quan hệ thứ cấp, có hai mối quan hệ quan trọng nhất, phản ánh cô đọng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta, đó là: 1) Quan hệ giữa xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ XHCN. 2) Quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN với xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và xây dựng, phát triển xã hội dân sự Việt Nam.

3. Tiếp cận trực tiếp từ bản chất của mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị

Trong kinh tế, đúng hơn là trong kinh tế học, người ta thường tập trung trả lời ba câu hỏi cơ bản: Làm cái gì? Làm thế nào? Làm bao nhiêu? Khi chính trị xuất hiện và thâm nhập vào kinh tế lại xuất hiện ba câu hỏi cơ bản nữa: Ai làm? Làm cho ai? Phân phối và hưởng thụ thế nào? Vậy là, khi kinh tế phát triển tới một trình độ nhất định, giữa kinh tế và chính trị có sự xâm nhập vào nhau, chi phối lẫn nhau. Do đó, tìm hiểu mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cần phải hiểu sự xâm nhập này để trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, không thể chỉ có tư duy xây dựng, hoàn thiện đơn lẻ thể chế kinh tế hay thể chế chính trị mà cần xuất phát từ tư duy xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế - chính trị.

Nói cách khác, khi nói đến kinh tế là nói đến lợi ích kinh tế, hiệu quả kinh tế, đến lực lượng sản xuất, cô đọng nhất là lợi ích kinh tế; còn nói đến chính trị, cô đọng nhất là nói đến quyền lợi. Bởi vậy, khi kinh tế và chính trị thâm nhập vào nhau nghĩa là quyền và lợi kết hợp với nhau. Vấn đề là quyền của ai và bao gồm những quyền gì? Ai được lợi và bao gồm những lợi gì? Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải đem quyền và lợi cho chủ thể kinh tế và chủ thể chính trị - đó là nhân dân. Nhân dân là chủ thể, là động lực và là đích hướng tới của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Sự nghiệp đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, về thực chất là dân chủ hóa xã hội, trọng tâm là dân chủ hóa kinh tế và dân chủ hóa chính trị.

4. Tiếp cận từ thực tiễn quá trình đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị ở Việt Nam

Suy cho cùng, thực tiễn luôn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Cần khẳng định rằng, trong mối quan hệ giữa tư duy đổi mới và hành động đổi mới, thì hành động luôn đi trước, bởi nó xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống, bắt đầu từ những hành động riêng lẻ như “khoán chui”, phá bỏ “ngăn song cấm chợ”, thực hiện sự “xé rào” để tồn tại.

Song, xét trên tổng thể, Ðảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Trong công cuộc đổi mới, Ðảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo tiền đề cần thiết để giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới chính trị và đổi mới toàn diện mọi mặt đời sống xã hội.

Trong thực tiễn chỉ đạo quá trình đổi mới, Đảng ta lại có thêm kinh nghiệm và bản lĩnh để kiên trì đường lối đổi mới theo định hướng XHCN vì hạnh phúc của nhân dân. Có thể khái quát quá trình hình thành và phát triển tư duy về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng được thực hiện qua hai giai đoạn lớn: giai đoạn hình thành đường lối đổi mới và giai đoạn tiến hành đổi mới từ sau khi có Nghị quyết Đại hội VI của Đảng.

Sự nghiệp đổi mới được tiến hành từ đổi mới tư duy đến hoạt động thực tiễn, từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội, nhưng không làm đồng loạt, dàn trải, mà luôn có trọng tâm, trọng điểm theo một lộ trình thích hợp, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá là nền tảng. Trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới, Đảng ta chủ trương đổi mới kinh tế đi trước một bước, từng bước đổi mới hệ thống chính trị nhằm giữ vững ổn định chính trị, tập trung mọi nguồn lực phấn đấu đưa đất nước vượt qua khủng hoảng để phát triển.

Quá trình hình thành đường lối đổi mới, về thực chất là quá trình đổi mới tư duy của Đảng diễn ra qua ba bước đột phá:

- Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8-1979) chủ trương cho sản xuất bung ra, thực hiện khoán sản phẩm đến người lao động (Chỉ thị 100).

- Hội nghị Trung ương 8 khóa IV (1-1981) chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp.

- Hội nghị Bộ Chính trị (8-1986) ra ba kết luận quan trọng, có tính chất bước ngoặt trong quan điểm đổi mới kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư; thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần; trong quản lý kinh tế thừa nhận lấy kế hoạch làm trung tâm nhưng phải sử dụng đúng quan hệ tiền tệ, hàng hóa.

Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, tạo ra các tiền đề, điều kiện quan trọng cho đổi mới kinh tế, chính trị, từng bước xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung - bao cấp, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế, có sự quản lý của Nhà nước (Đại hội IX chính thức khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN).

Quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế đã làm thay đổi cơ bản các cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội của tổ chức và hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản. Nội dung của chuyên chính vô sản, hình thức tổ chức của chuyên chính vô sản đòi hỏi phải được đổi mới để phù hợp với tính chất của “hạ tầng kinh tế”. Điều này có nghĩa là hệ thống chuyên chính vô sản cần phải có một sự “biểu đạt” mới, tạo tiền đề để đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống này trong bối cảnh kinh tế - xã hội mới của đất nước và bối cảnh mới của thời đại.

 Đề cập mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (tháng 3-1989) chỉ rõ : “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới”(1). Cũng trong Hội nghị này, lần đầu tiên Đảng ta sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” mà không sử dụng khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”. Nếu như trong các văn kiện Đại hội III, IV, V, VI Đảng ta còn sử dụng các khái niệm “chuyên chính vô sản” và “hệ thống chuyên chính vô sản” thì đến Đại hội VII (6-1991) Đảng ta không sử dụng các khái niệm này nữa mà sử dụng các khái niệm: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị.

Đến Đại hội VII, Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, coi đây là vấn đề trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH. Nghị quyết Đại hội Đảng ghi rõ: “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà chậm trễ tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ... Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội’’(2).

Tại Đại hội VIII, Đảng ta một lần nữa khẳng định quan điểm về vấn đề này: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Phát huy dân chủ, khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống mọi khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích, mọi âm mưu lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm gây rối chính trị, chống phá chế độ, can thiệp vào nội bộ của ta”(3).

Đại hội X nhấn mạnh: “Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp... Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội... Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân’’(4).

Đại hội XI, trên cơ sở quán triệt nguyên tắc trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng ta tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp, trong đó đặc biệt chú trọng đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trong đổi mới kinh tế, Đảng xác định: Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc. Trong đổi mới chính trị, mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng…

Trải qua gần 30 năm tiến hànhcông cuộc đổi mới, tư duy lý luận của Đảng ta về đổi mới, đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị đã “chín dần’’theo thời gian và thực tiễn đổi mới. Trên cơ sở tư duy mới, lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH nói chung, lý luận về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nói riêng đã ngày một hoàn thiện và từng bước thâm nhập vào cuộc sống.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 11-2013

(1)Nghị quyết số 06-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) Kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới, ngày 29-3-1989.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991. tr. 54-55.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.14.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 70-72.

 

GS, TS Dương Xuân Ngọc

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

 

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền