Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ năm, 24 Tháng 4 2014 10:45
12650 Lượt xem

Mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế

(LLCT) - Không thể phủ nhận những lợi ích mà toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đem lại cho sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức đối với các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. 

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là tiến trình phức tạp, vận động, phát triển dưới tác động của các mâu thuẫn được biểu hiện thông qua các dạng thức của cuộc đấu tranh giữa các lực lượng xã hội. Giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, suy cho cùng, là nhằm thiết lập một “trật tự” kinh tế thế giới mới có khả năng đảm bảo cho sự phân phối các lợi ích giữa các quốc gia dân tộc một cách hợp lý hơn. Đấu tranh lúc đầu chỉ xuất hiện từ sự khác nhau về lợi ích nào đó. Qua đấu tranh, những khác biệt đó có thể dần giảm đi hay phát triển thành những mâu thuẫn gay gắt. Sự khác biệt về lợi ích sẽ giảm đi khi giữa chủ thể và khách thể từng bước có sự “thỏa hiệp” để nâng tầm cao của hợp tác. Đồng thời, sự khác biệt có thể ngày càng phát triển tạo thành mâu thuẫn và đòi hỏi được giải quyết. Khi mâu thuẫn được giải quyết, sự thống nhất mới ra đời thay thế sự thống nhất đã có và phá vỡ quan hệ hợp tác đã được xác lập.    

Trong những điều kiện nhất định và những mối quan hệ xác định thì hợp tác hay đấu tranh, mặt này có thể nổi trội hơn so với mặt kia. Sau các cuộc đấu tranh quyết liệt, chiều hướng hợp tác thường biểu hiện ra bên ngoài mạnh mẽ hơn. Đồng thời, dưới cái vỏ bọc của “hợp tác”, các đối tác đều nhằm vào mục tiêu tăng cường nội lực của chính mình, chờ sự “tự suy yếu tương đối” của các đối tác khác để tìm kiếm những hình thức và mức độ tập hợp lực lượng mới, tăng thêm thế và lực về chính trị cũng như an ninh, từng bước điều chỉnh chính sách và mối quan hệ đối với các đồng minh và đối tác.    

Chính vì thế, bất luận trong hoàn cảnh nào của hội nhập kinh tế quốc tế, cũng cần phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc là mục tiêu cao nhất và là nguyên tắc chủ đạo. Đồng thời, kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực; kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.

Trong tiến trình hội nhập chúng ta phải giữ vững mục tiêu, định hướng XHCN. Quá trình đó gắn liền với cuộc đấu tranh giữ vững độc lập tự chủ về chính trị, tôn trọng chủ quyền lãnh thổ; thực hiện đa phương hoá và đa dạng hoá với nhiều đối tác khác nhau cùng có chung mục đích đôi bên đều có lợi và bảo đảm cho đất nước vừa phát triển nhanh kinh tế vừa tiến lên theo đúng định hướng XHCN, từng bước hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.           

Để giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh một cách hiệu quả, cần quán triệt quan điểm hợp tác là tương đối, đấu tranh là tuyệt đối. Hiện nay, nhiệm vụ đặt ra đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế rất nặng nề, yêu cầu đội ngũ cán bộ, doanh nhân: phải trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên định con đường đi lên CNXH, quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch; hiểu biết sâu sắc những quy luật của kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới; hiểu biết thông lệ và luật pháp quốc tế; tìm kiếm và phát hiện kịp thời lợi thế quốc gia và vận dụng một cách sáng tạo các quy luật kinh tế để đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực đối với nền kinh tế quốc gia; giữ vững mục tiêu đưa nền kinh tế nước ta đi theo định hướng XHCN, không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà đánh mất lợi ích chính trị - xã hội lâu dài. Hội nhập kinh tế quốc tế nhưng không được xa rời mục tiêu, lý tưởng và những vấn đề mang tính nguyên tắc; thực hiện tốt các cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các hiệp định quan hệ thương mại song phương để thể hiện rõ, Việt Nam luôn là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.           

Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan đã và đang lôi cuốn nhiều quốc gia cùng tham gia. Tuy nhiên, thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng bộc lộ tính chất thiếu công bằng: trong khi các quốc gia công nghiệp phát triển được hưởng lợi rất lớn thì các quốc gia đang phát triển, chậm phát triển lại chịu nhiều thua thiệt. Vì vậy, chúng ta cần đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế, đồng thời kiên quyết đấu tranh giữ vững nền kinh tế độc lập, tự chủ. Bởi vì, bên cạnh những tác động tích cực, hội nhập kinh tế quốc tế cũng có những tác động tiêu cực như: gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế làm suy giảm hay hạn chế độc lập tự chủ về kinh tế của các quốc gia; sự lũng đoạn của các công ty xuyên quốc gia trên nhiều mặt; việc các quốc gia tập trung vào các ngành, lĩnh vực có ưu thế và hiệu quả kinh tế cao dẫn đến cơ cấu nền kinh tế bất hợp lý và những nguy cơ khác. Nền kinh tế độc lập, tự chủ là điều kiện vật chất căn bản quyết định tính chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế và là nền tảng vật chất để củng cố nền độc lập, tự chủ về chính trị. Vì vậy, cần kết hợp đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế với đấu tranh giữ vững nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Để giữ vững nền kinh tế độc lập, tự chủ, chúng ta cần xác định cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả; nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế; coi trọng quan điểm phát triển kinh tế bền vững. Trong các ngành kinh tế quan trọng, phải giám sát chặt chẽ, đảm bảo cơ cấu đầu tư nước ngoài ở mức hợp lý; hạn chế hoặc không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành kinh tế nhạy cảm.           

Xuất phát từ những đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại và yêu cầu xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc xử lý các mối quan hệ quốc tế, chủ động kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác và đấu tranh nhằm đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm nền kinh tế độc lập, tự chủ và định hướng XHCN. Quan hệ hợp tác nhiều mặt của Việt Nam không ngừng mở rộng. Việt Nam cũng tham gia và tích cực đóng góp vào giải quyết các vấn đề toàn cầu, bảo vệ hoà bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang. Tăng cường hợp tác, trước hết về kinh tế, là sự bổ sung và hỗ trợ cần thiết cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng XHCN, để từ đó có thể chủ động đi vào quỹ đạo phát triển của thời đại một cách có lợi và phù hợp nhất. Đấu tranh giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ vững định hướng XHCN, bảo vệ môi trường là tạo điều kiện để hợp tác quốc tế. Kết hợp đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần thực hiện những nội dung sau: 

Một là, trong quá trình đẩy mạnh hợp tác, Việt Nam cần giành thế chủ động, tiến hành từng bước với một lộ trình hợp lý và khả thi. Lộ trình được xây dựng trên cơ sở sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp. Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hoá quan hệ quốc tế. Việt Nam không những “sẵn sàng là bạn” mà còn sẵn sàng là “đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới”.      

Hai là, tiếp tục phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, các tổ chức quốc tế và khu vực, các trung tâm chính trị, kinh tế lớn trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau... Coi trọng quan hệ với các nước láng giềng, các nước XHCN, các nước lớn, các nước có quan hệ bạn bè truyền thống và các tổ chức quốc tế mà nước ta là thành viên. Thực hiện tốt những thoả thuận, những dự án hợp tác đã ký kết với các đối tác, làm cho quan hệ đối ngoại trở nên thiết thực và hữu ích hơn đối với tất cả các bên liên quan, củng cố sự tin cậy lẫn nhau.      

Ba là, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, đảm bảo an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và môi trường sinh thái. Tăng cường sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau, giữa hợp tác về kinh tế, an ninh - quốc phòng. Nâng cao năng lực làm chủ khoa học và công nghệ của đội ngũ các nhà quản lý kinh tế, kinh doanh. Phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho toàn dân, thực hiện công bằng xã hội... là nền tảng vững chắc nhất bảo đảm cho chúng ta vừa hội nhập kinh tế quốc tế vừa giữ được quyền độc lập, tự chủ.          

Cùng với việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển nguồn lực trong nước là chính, việc tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Thực tiễn hội nhập quốc tế chứa đựng những thời cơ và thách thức. Chúng ta có thể tiếp cận được những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại để vươn lên. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các nền kinh tế trên phạm vi toàn cầu, hàng hóa giá rẻ từ những nền kinh tế phát triển hơn, có năng suất lao động cao hơn có thể “bóp chết” các ngành sản xuất non trẻ và lạc hậu. Chủ nghĩa tư bản bằng ưu thế về vốn và công nghệ hiện đại đang biến toàn cầu hóa về kinh tế thành “thôn tính kinh tế” và từ đó tiến tới “thôn tính chính trị”.      

Một số quốc gia trên thế giới đã phải chịu ảnh hưởng và trả giá nặng nề cho mục tiêu tăng trưởng bằng mọi giá, dẫn đến bị lệ thuộc về kinh tế vào các quốc gia khác. Kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia cho thấy tình trạng lệ thuộc kinh tế có nhiều mức độ và biểu hiện khác nhau như vay nợ để phát triển nhưng quá trình sử dụng kém hiệu quả dẫn đến mất khả năng trả nợ. Mặt khác, để được cho vay, một số quốc gia sẵn sàng chấp nhận những điều kiện của chủ nợ, dẫn đến mất dần tính độc lập trong việc hoạch định các chính sách cụ thể. Chính vì vậy, càng vay nợ càng bị lệ thuộc nhiều hơn.         

Thực tế đó cho thấy, trong hội nhập kinh tế, phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển bền vững, có sức đề kháng đối với những rủi ro. Nền kinh tế quốc gia phải phát triển cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Các nhà kinh tế đã rút ra một nguyên tắc: Mỗi quốc gia chỉ được tiêu những gì sản xuất ra được và không được vay những khoản nợ không có khả năng chi trả.       

Từ những phân tích trên, có thể khẳng định: để hội nhập kinh tế quốc tế thành công, nhất thiết phải dựa vào sức mình, kết hợp với tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài. Cần xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng về xuất khẩu, đồng thời phải từng bước thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Ở đây, chúng ta cần giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực, trong đó, nội lực là chính, là quyết định.           

Để xây dựng và phát triển kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, cần nhanh chóng tái cơ cấu nền kinh tế, xây dựng đồng bộ thị trường trong nước (thị trường hàng hoá, thị trường nhân lực, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản), để đủ sức hội nhập với khu vực và hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác; giữa hợp tác và đấu tranh. Thực hiện hiệu quả phương châm “vừa tuần tự tiệm tiến, vừa tăng tốc đột phá”; phân bổ lại các nguồn lực quốc gia để nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế... nhằm đạt được một cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, năng động hơn, năng lực cạnh tranh cao hơn, có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn.          

Cần nhận thức đúng đắn rằng, giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước ta. Mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh và giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay biểu hiện ở những nội dung và hình thức phong phú, đa dạng, trong không gian và thời gian khác nhau, ở cả tầm vĩ mô và vi mô, cả trong ngắn hạn và dài hạn. Giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh đòi hỏi phải thực hiện tốt các vấn đề sau:      

Một là, đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng; có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân. Trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, không được tách rời đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đường lối, chủ trương hội nhập quốc tế.            

Hai là, nhận thức rõ bản chất của việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh là giải quyết những mâu thuẫn về lợi ích. Trong đó, có những mâu thuẫn lợi ích cơ bản và không cơ bản, trước mắt và lâu dài, cục bộ và toàn bộ... Công việc này đòi hỏi phải tiến hành tập trung, kiên trì, có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội, các doanh nghiệp và người lao động. Đồng thời, cần phát huy tốt nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là khối đại đoàn kết toàn dân tộc.   

Ba là, giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh chỉ thực sự hiệu quả trong môi trường chính trị - xã hội ổn định và lành mạnh. Vì vậy, phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, làm thay đổi nhận thức, thói quen, nếp nghĩ, tâm lý đến hành động của từng người, của cả cộng đồng, để mỗi người hiểu rằng, giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Đây là vấn đề quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.          

Giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế cũng cần nắm vững phương pháp luận duy vật biện chứng; kết hợp hội nhập kinh tế quốc tế với hội nhập trên các lĩnh vực chính trị, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc phòng; bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại; phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa nước ta đi lên vượt qua khó khăn, thách thức.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2013

 

ThS Phạm Xuân Thiên

Đại học quốc gia Hà Nội

 

      

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền