Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Vận dụng kinh nghiệm phát huy sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế trong chiến tranh cách mạng vào phát triển đất nước
Thứ năm, 24 Tháng 4 2014 16:56
7623 Lượt xem

Vận dụng kinh nghiệm phát huy sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế trong chiến tranh cách mạng vào phát triển đất nước

(LLCT) - Thắng lợi mà nhân dân Việt Nam giành được trong 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975) là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi đó đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất và CNXH, đứng vào hàng ngũ các quốc gia, dân tộc tiên phong trên thế giới. Đó là chiến thắng của đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đồng thời tranh thủ tối đa sự đoàn kết, ủng hộ của quốc tế; vừa phát huy sức mạnh dân tộc, vừa phát huy sức mạnh thời đại.          

 

Đảng ta đã nắm bắt xu thế vận động, phát triển của thời đại, chủ động khai thông với thế giới, làm cho bầu bạn quốc tế quan tâm, hiểu và ủng hộ Việt Nam, nâng cao uy tín và ảnh hưởng quốc tế của cách mạng Việt Nam, phát triển trong liên minh, hợp tác trong đấu tranh.

Kinh nghiệm lớn trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng, là ngay từ đầu và trong suốt cuộc chiến tranh, Đảng thường xuyên làm cho nhân dân thế giới hiểu cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam, vạch trần tội ác xâm lược của kẻ thù được che giấu dưới mọi hình thức, để thức tỉnh nhân loại tiến bộ. Đó là quá trình bền bỉ, kiên nhẫn tuyên truyền, thuyết phục và công tác đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo của Đảng và Chính phủ.         

Ngay sau ngày giành được độc lập, Việt Nam coi trọng việc thiết lập quan hệ ngoại giao, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước XHCN, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước vừa giành được độc lập, góp phần thúc đẩy phong trào chống đế quốc thực dân. 

Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ mạnh mẽ, hiệu quả của quốc tế trên cơ sở nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc        

Sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta là động lực cơ bản, có sức cuốn hút mạnh mẽ và tập hợp toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tạo thành khối đoàn kết thống nhất. Trong khi tiếp nhận, sử dụng viện trợ quốc tế, nhân dân Việt Nam luôn quán triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cần phải hết sức tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, với tinh thần tự lực, tự cường.        

Mỗi thắng lợi của cách mạng là một bước tiến mới trong việc tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế. Đảng và Nhà nước chăm lo tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối kháng chiến và đặt hoạt động đối ngoại thành một mũi tiến công có tầm quan trọng chiến lược, góp phần phát triển thế và lực. 

Trong lịch sử thế giới, chưa có cuộc đấu tranh vì chính nghĩa, độc lập, tự do, hoà bình thống nhất nào được sự ủng hộ rộng rãi và mạnh mẽ của nhân dân thế giới, của nhân dân chính nước đối phương như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.           

Đường lối cách mạng đúng đắn, thể hiện khát vọng giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, được toàn dân tin theo, cuộc chiến tranh giải phóng được cả loài người tiến bộ đồng tình ủng hộ, giúp đỡ to lớn về vật chất và tinh thần. Đó là thành quả và là sức mạnh hiện thực của truyền thống yêu chuộng hoà bình và công lý, quyết chiến đấu, hy sinh vì độc lập thống nhất của Tổ quốc, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của toàn nhân loại.     

Trong bối cảnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có mâu thuẫn, bất đồng, Việt Nam đã giữ vững độc lập, tự chủ, xử lý mềm dẻo các mối quan hệ, kiên trì đoàn kết quốc tế         

Đương đầu trực tiếp với một đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế, quân sự gấp nhiều lần, Việt Nam cần có khối lượng vật chất kỹ thuật rất lớn, sự ủng hộ chính trị, tinh thần mạnh mẽ của quốc tế, trước hết là các nước XHCN, nòng cốt là Liên Xô, Trung Quốc. Trong tình hình nội bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có mâu thuẫn sâu sắc, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra điểm tương đồng và điểm khác nhau trong quan hệ giữa mỗi nước với Việt Nam, xác định lợi ích và chính sách của mỗi nước trong vấn đề chiến tranh Việt Nam, tìm ra mẫu số chung là ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, làm nghĩa vụ quốc tế đối với một thành viên trong phe XHCN và bảo vệ hoà bình thế giới.         

Giữ vững độc lập, tự chủ, Việt Nam đã vượt qua những ảnh hưởng tiêu cực của chủ nghĩa xét lại, giáo điều, luận giải sáng tỏ và tháo gỡ thành công nhiều vấn đề mới đặt ra cho cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ. Việt Nam luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ trong hoạch định đường lối, chính sách, trong lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến, đối ngoại; đồng thời kiên trì đoàn kết quốc tế với tinh thần trong sáng.         

Những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng, trong đó bài học về tranh thủ, phát huy sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, có ý nghĩa lớn và lâu dài đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.         

vận dụng kinh nghiệm phát huy sự ủng hộ giúp đỡ quốc tế trong chiến tranh cách mạng vào tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay, trước hết cần:       

Nhận thức, đánh giá chuẩn xác, khách quan về nội dung, tính chất của thời đại và sự vận động của thế giới            

Ngày nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, lôi cuốn các quốc gia trên thế giới. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn của thời đại; song chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác... diễn ra phức tạp.     

Tình hình đó vừa mở ra thời cơ phát triển, vừa đặt ra những thách thức gay gắt, đòi hỏi mỗi quốc gia phải đề cao trách nhiệm, tăng cường đoàn kết và đẩy mạnh hợp tác với các nước và các tổ chức để thúc đẩy hòa bình, thịnh vượng.         

Với thành tựu đạt được qua hơn 25 năm đổi mới, thế và lực của Việt Nam lớn mạnh hơn nhiều, tạo điều kiện cho đất nước tiến lên hoà cùng xu thế phát triển chung của thời đại. Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á - một khu vực đang được đánh giá là phát triển năng động, nhiều tiềm năng, trở thành một đầu tàu tăng trưởng kinh tế của thế giới, thu hút sự quan tâm của các nước lớn và các trung tâm kinh tế - chính trị.  

Bên cạnh đó, không ít khó khăn, thách thức mới, cả trực tiếp và gián tiếp, tác động mạnh đến vấn đề bảo vệ độc lập chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.   

Cơ hội và thách thức đan xen càng đòi hỏi sự sáng suốt, tầm nhìn xa trông rộng và bản lĩnh chính trị, quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước, cùng sự nỗ lực của toàn dân, nhằm hạn chế những khó khăn, thách thức, biến thách thức thành cơ hội. Thận trọng, nhạy bén trong phân tích, đánh giá về thời đại cũng như về cục diện thế giới là một phần quan trọng trong đổi mới tư duy “biết mình, biết người, dự báo tương đối đúng tình hình quốc tế là một trong những căn cứ quan trọng để hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại”(1).      

Vấn đề đặt ra đối với Đảng, Nhà nước, đối với mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên là tích cực nghiên cứu, vận dụng tốt những bài học lịch sử trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.        

Trong quá trình toàn cầu hoá, chủ quyền quốc gia đứng trước những thách thức mới, do vậy, vấn đề cơ bản có ý nghĩa chiến lược là phải tập trung mọi nỗ lực để xây dựng, củng cố, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia      

Tình hình chính trị thế giới đang diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó là sự phát triển của khoa học - công nghệ, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia không ngừng tăng lên, quá trình khu vực hoá và toàn cầu hoá đang phát triển ngày càng mạnh mẽ.         

Bài học phát huy đoàn kết thống nhất toàn dân, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại trong ba mươi năm chiến tranh cách mạng cần được nghiên cứu và vận dụng phù hợp. 

Trong thời đại ngày nay, đông đảo nhân dân tiến bộ trên thế giới hướng vào mục tiêu chung là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, thì bất cứ dân tộc nào muốn giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng phải dựa vào sức mình là chính, phát huy sức mạnh nội lực, đồng thời phải tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ đông đảo của bạn bè quốc tế, tập hợp tối đa sức mạnh của lực lượng tiến bộ thế giới.       

Trong thời kỳ chiến tranh, các nước quan tâm đến Việt Nam trước hết vì những mục tiêu chính trị, ý thức hệ. Ngày nay, bên cạnh những tính toán về chiến lược toàn cầu, yếu tố lợi ích kinh tế ngày càng trở nên quan trọng hơn trong quan hệ với các nước lớn và các nước trong cùng khu vực với Việt Nam. Việt Nam đã có một vị trí nhất định trong chính sách đối ngoại của các nước lớn cũng như các nước trong khu vực. Nhận định của Đảng ngay từ những năm đầu đổi mới vẫn còn nguyên tính thời sự: “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”(2).      

Tại Đại hội XI (1-2011), Đảng tiếp tục khẳng định bài học kinh nghiệm: “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”(3). 

Với vị thế quốc tế ngày càng được nâng cao, Việt Nam góp phần xứng đáng vào sự nghiệp củng cố hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới. 

Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo về biện pháp           

Thấu triệt và giữ vững tư tưởng, phương châm xử thế của Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, giữ vững định hướng XHCN, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo về biện pháp, phù hợp tình hình trong nước và quốc tế.           

Trái với những dự đoán trước đây về xu thế toàn cầu hoá. Ngày nay lợi ích quốc gia, dân tộc vẫn luôn là vấn đề căn cốt trong chi phối mọi hoạt động quốc tế hiện hữu. Chính vì vậy, trong tiến trình hội nhập quốc tế, vận dụng “bất biến” tức là phải tuyệt đối đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển của đất nước lên trên hết, không vì bất kỳ quyền lợi hay lợi ích nhất thời, cục bộ của tổ chức, lợi ích nhóm mà làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc.

Thực hiện phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế cũng phải luôn “ứng vạn biến”, phân tích, dự đoán và mau lẹ chớp lấy thời cơ, nắm chắc và tận dụng có hiệu quả thời cơ để mang lại lợi ích to lớn cho quốc gia, trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Sự linh hoạt trong phân loại đối tượng - đối tác; sự sáng tạo, mềm dẻo trong các phương thức đối ngoại; kết hợp hài hoà và hiệu quả giữa ngoại giao truyền thống và hiện đại - Đó là thước đo bản lĩnh cách mạng, sự mẫn cảm và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới.           

Quá trình đổi mới không ngừng về tư duy đối ngoại, quan hệ của Việt Nam với khu vực đã có những thay đổi sâu sắc, phá thế bị bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế và vai trò của đất nước trong khu vực cũng như quốc tế. Việc giải quyết hoà bình và hiệu quả các vấn đề tranh chấp giữa Việt Nam và các bên có liên quan về biên giới, lãnh thổ chủ quyền quốc gia, luôn gắn với trách nhiệm, với hoà bình, ổn định khu vực.           

Hơn lúc nào hết, đoàn kết, thống nhất dân tộc hiện nay phải được thực hiện trên cơ sở kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.      

Tận dụng thời cơ, chủ động mở rộng và phát triển quan hệ với tất cả các nước, tạo ra lợi ích đan xen trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, các đảng cộng sản và đảng cầm quyền trên thế giới trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, sẵn sàng hợp tác trong sự bình đẳng, hữu nghị, cùng có lợi  

“Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” là quan điểm đối ngoại của Đảng tại Đại hội XI. Đó là kết quả của quá trình phát triển trong nhận thức và tư duy đối ngoại trong lịch sử. Đại hội IX chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”(4), Đại hội X đã bổ sung: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”(5). Trước bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ hiện nay, Đại hội XI đã phát triển quan điểm này thành: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.           

Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả trong các tổ chức quốc tế và khu vực như Liên Hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM... Ngoại giao đa phương là một điểm sáng trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế được triển khai theo lộ trình từ cấp độ khu vực đến toàn cầu. Đỉnh cao của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007..     

Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180 nước, trong đó xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với nhiều nước: Trung Quốc, Nga, Anh, Đức, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Tây Ban Nha... Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ với 206 chính đảng ở 114 quốc gia trên thế giới; Việt Nam có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; quan hệ đầu tư với gần 100 nước và vùng lãnh thổ; là thành viên của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực(6).      

Là một thành viên của ASEAN, Việt Nam triệt để tuân thủ nguyên tắc đã nêu trong Hiến chương ASEAN, đồng thời cam kết thực hiện nguyên tắc này với tất cả các nước ngoài ASEAN, không lôi kéo, không tham gia liên minh của nước này để chống lại nước khác. Việt Nam nỗ lực không ngừng mở rộng sự hợp tác của bản thân và sự hợp tác của ASEAN với các nước ngoài khu vực, nhất là với tất cả các nước đối thoại của ASEAN, các nước lớn như Trung Quốc, Nga, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ...          

Kết quả đạt được từ những nỗ lực ngoại giao đã củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, giữ vững an ninh, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.        

Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, mở rộng quan hệ quốc tế, phát huy nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực để phát triển đất nước          

Kinh nghiệm từ thực tiễn lịch sử thời kỳ chiến tranh cách mạng cho thấy, giữ vững độc lập tự chủ, gắn lợi ích dân tộc với lợi ích các nước khác trong khu vực và xu thế chung của thế giới, thực thi chính sách tương đối cân bằng giữa các nước lớn, không ngả theo nước này chống nước kia, sẽ tạo cho Việt Nam môi trường quốc tế thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước.  

Độc lập tự chủ là mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của dân tộc trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, là bài học được vận dụng, bổ sung phát triển trong thời kỳ chiến tranh cách mạng. Độc lập tự chủ là cơ sở để Việt Nam hội nhập thành công, và chính hội nhập giúp chúng ta tranh thủ được sức mạnh của thời đại để củng cố độc lập tự chủ của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Có tự lập mới độc lập, có tự cường mới có tự do”(7). Độc lập tự chủ không đồng nghĩa với biệt lập hay cô lập mà phải đi đôi với chủ động mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích quốc tế.      

Độc lập tự chủ còn là “chiếc neo về bản sắc”: hội nhập càng sâu rộng, ý thức về bản sắc càng cao, nhu cầu gìn giữ giá trị văn hóa, truyền thống dân tộc càng lớn. Việt Nam có lịch sử đấu tranh vẻ vang vì độc lập dân tộc, có tinh thần độc lập, tự chủ cao, vì thế càng được nhiều nước coi trọng và muốn phát triển quan hệ.      

Điểm sáng tạo nổi bật trong tư duy của Đảng là xác định độc lập, tự chủ gắn liền với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam XHCN “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 

Nội lực, sức mạnh dân tộc Việt Nam trong công cuộc đổi mới là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đồng thuận xã hội; là tính ưu việt của chế độ, là sức mạnh của hệ thống chính trị và sự ổn định chính trị; là lực lượng lao động đông đảo của đất nước hơn tám mươi triệu dân cần cù, thông minh và sáng tạo, là năng lực tư duy, tổ chức, khả năng thích ứng, tiếp nhận những giá trị văn hoá, văn minh, tiến bộ từ bên ngoài; khả năng nắm bắt cơ hội để phát triển; là tài nguyên phong phú, địa kinh tế thuận lợi. Đảng nêu rõ: “Dựa vào nguồn lực trong nước chính là đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài”(8).  

Vượt qua thách thức bởi sự tan rã của hệ thống XHCN, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã tranh thủ có hiệu quả yếu tố ngoại lực, sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Quá trình thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, vừa hợp tác vừa đấu tranh; liên kết và hội nhập là xu thế chung, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ; sự phát triển thị trường thế giới, quá trình toàn cầu hoá đặt ra vấn đề là phải tận dụng tốt nhất cơ hội để tạo ra thế và lực mới vượt qua thách thức, tạo cơ hội lớn hơn.          

Hiện nay, vấn đề đặt ra là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và tiến trình đổi mới trong nước, tăng cường quản lý, sử dụng một cách hiệu quả các nguồn tài trợ, đặc biệt là nguồn vốn ODA. Việc sử dụng ODA trong thời gian qua về cơ bản có hiệu quả, góp phần phát  triển hạ tầng kinh tế, xã hội; tăng cường năng lực thể chế và con người. ODA đã là một bộ phận quan trọng  trong cung cấp tài chính cho sự phát triển của Việt Nam. Tuy vậy, vấn đề quản lý, sử dụng nguồn vốn này còn nhiều bất cập. Hoàn thiện, đồng bộ hệ thống luật pháp, chính sách nhằm thu hút, tạo sự an tâm, niềm tin cho các đối tác, các nhà tài trợ là vấn đề đặt ra để Việt Nam thực hiện đúng cam kết sử dụng các nguồn vốn các nhà tài trợ một cách  hiệu quả, minh bạch và phòng chống tiêu cực, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ, các nhà tài trợ nước ngoài.       

Thực tiễn cho thấy sự nỗ lực chủ quan, phát huy tối đa nội lực, chủ động và tích cực thì hoàn toàn có thể vượt qua thách thức, có thể biến thách thức thành động lực phát triển. Đó vừa là bài học vừa là vấn đề có tính chiến lược của cách mạng Việt Nam. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay đòi hỏi phát huy sức mạnh tổng hợp trên cơ sở tăng cường đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết và mở rộng hợp tác quốc tế.        

Trong 30 năm chiến tranh cách mạng, cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của nhân dân các nước yêu chuộng hoà bình và tiến bộ, dân chủ. Sức mạnh dân tộc và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam đã được kết hợp chặt chẽ với sức mạnh của thời đại, trở thành một nhân tố làm nên thắng lợi. Với thắng lợi của cuộc kháng chiến và đổi mới, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao bình đẳng với hầu hết các nước. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế được thực hiện nhất quán .         

Mong muốn quan hệ với tất cả các nước dân chủ trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của nhau, sẵn sàng hợp tác trong sự bình đẳng, hữu nghị đã trở thành bài học lịch sử trong chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt Nam được nhân dân thế giới nhắc đến với một thái độ trân trọng “Việt Nam, một biểu tượng cho tinh thần đấu tranh chống áp bức”, “Việt Nam đại diện cho lương tri và phẩm giá con người”... Việt Nam trở thành một trong những nhân tố, những dữ kiện mà các nước lớn phải tính đến khi hoạch định chiến lược và chính sách đối ngoại. Trên các diễn đàn quốc tế, tiếng nói của Việt Nam góp phần tích cực cùng các nước giải quyết những vấn đề của cộng đồng quốc tế vì mục tiêu hòa bình, độc lập, ổn định và tiến bộ xã hội.            

Những bài học kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng có ý nghĩa to lớn và lâu dài đối với sự lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.

______________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2013

(1) Tìm hiểu một số điểm mới về đường lối, chính sách đối ngoại trong văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Công tác Tư tưởng Lý luận, tháng 9-2006.    

(2) Nghị quyết số 13 năm 1988 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, trích theo Nguyễn Cơ Thạch: Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta, Tạp chí Quan hệ quốc tế  tháng 1-1990.      

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 66.           

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 43.           

(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,  2006, tr 112.

(6) Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với tiêu đề “Vì một Đông Nam Á hòa bình, ổn định và phát triển” tại Trường Chính sách công Lý Quang Diệu - Xinggapo, ngày 14-9-2012.        

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.441.

(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr74, 84.      

 

TS Trịnh Thị Hồng Hạnh

Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

 

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền