Trang chủ    Nhân vật - Sự kiện    Phong cách Tôn Đức Thắng
Thứ sáu, 10 Tháng 8 2018 16:19
2557 Lượt xem

Phong cách Tôn Đức Thắng

(LLCT) - Phong cách Tôn Đức Thắng được hình thành và hoàn thiện từ tinh hoa dân tộc mà cốt lõi là văn hóa Nam Bộ với quá trình tu dưỡng, hoạt động trong phong trào công nhân, đặc biệt là chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, lý tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Phong cách Tôn Đức Thắng là tài sản tinh thần to lớn, quý giá của Đảng và dân tộc ta, góp phần vào thành công của sự nghiệp cách mạng.

1. Chất Nam Bộ  với phong cách Tôn Đức Thắng

Truyền thống văn hóa, lịch sử của Long Xuyên nói riêng, Nam Bộ nói chung đã hun đúc lòng yêu nước và tinh thần cộng sản cho người thanh niên Tôn Đức Thắng. Nam Bộ là vùng đất mới, vùng cửa sông giáp biển tạo nên những đặc thù. Trong quá trình khai phá vùng đất mới hoang vu hiểm trở, con người đồng bằng sông Cửu Long rũ bỏ được tư tưởng bảo thủ để sống thực tế hơn, rộng lượng hơn trong sinh hoạt và giao tiếp xã hội. Lấy hiệu quả làm thước đo, họ ít lý thuyết kiểu giáo điều mà kiên cường, khí phách hiên ngang, dũng cảm, tự lập; linh hoạt ứng phó, dám thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh, thích nghi nhanh, dám nghĩ dám làm. Tinh thần anh dũng “trọng nghĩa khinh tài”, nghĩa khí trở thành tập tục, nếp sống, triết lý sống: “Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi”(1) (việc nghĩa phải làm không kể thành bại). Một trong những đặc điểm nổi trội của chất người Nam Bộ là vì nghĩa. Nghĩa là lẽ phải, điều phải, điều phải làm, không kể điều ấy lợi hay hại cho ta. Nghĩa là đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng, vì đại nghĩa mà dám hy sinh cá nhân cho đất nước(2). Tinh thần quật khởi mang hào khí, dấu ấn Nam Bộ biểu lộ một thái độ hiên ngang, có ý thức xả thân vì nghĩa khí. Nhờ đó mà nhân dân đồng bằng sông Cửu Long giữ được tinh thần quật khởi mang dấu ấn Nam Bộ. Những địa danh Cao Lãnh, Mười tám thôn Vườn Trầu, Đồng Tháp, U Minh, Củ Chi, Hòn Đất, v.v.. là những thành đồng, vách sắt, vừa ghi lại những sự tích oai hùng của dân tộc, vừa qua đó toát lên khí phách hiên ngang, bất khuất của con người đồng bằng sông Cửu Long. Lòng yêu nước, tinh thần anh dũng, bất khuất “thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ” kiểu Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân cùng hàng trăm cuộc khởi nghĩa đã đắp bồi lòng yêu nước thương dân, một cơ sở hình thành phong cách Tôn Đức Thắng.

Tuổi học trò, Tôn Đức Thắng (thường gọi Hai Thắng) là một thiếu niên thông minh, thích nghe thơ văn và chuyện lịch sử. Thầy Năm Khách (Nguyễn Thượng Khách) thường kể cho Hai Thắng nghe những câu chuyện về tấm gương yêu nước, như: Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Đốc Bình Kiều, Thiên Hộ Dương… Thầy còn đọc thơ của các chiến sĩ trong nhóm Đông kinh Nghĩa thục cho Thắng nghe. Một trong những đức tính quý của trò Hai Thắng trong những giờ học là nêu nhiều câu hỏi liên quan đến người Pháp có mặt ở Việt Nam, việc người Pháp giết người, thu thuế, bắt dân mình đi xâu. Có những câu hỏi chung, như: nước Pháp ở tận đâu? Họ có bị nước khác đến cai trị như nước mình không? Họ có làm ruộng, làm thợ như nước mình không? Qua những câu hỏi, thầy Năm Khách nhận xét Hai Thắng là một học trò không chỉ hiếu học mà còn thông minh. Cách hỏi cho thấy trò Thắng bước đầu có suy nghĩ độc lập về thời cuộc, về cái đúng, cái sai. Từ đó, thầy Năm Khách tiếp tục bồi dưỡng Hai Thắng bằng cách cho mượn và hướng dẫn những sách cần đọc. Lòng say mê học tập, ham hiểu biết của Hai Thắng mỗi ngày được nung nấu thêm, bộc lộ dần tính cách riêng.

Sau khi học xong bậc tiểu học ở Long Xuyên, vừa không có điều kiện học tiếp bậc trung học, vừa do ngọn lửa yêu nước thôi thúc, Hai Thắng đã quyết định đi tìm con đường mới theo tiếng gọi của trái tim mình, mà sau này lịch sử đã chứng minh đó là “phương hướng tốt, hợp thời đại”(3). Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng nhận xét “Tôn Đức Thắng lên Sài Gòn không phải hoàn toàn chỉ với hành trang của một nông dân giống như một nông dân Nọc Nạn hay Càng Long. Đã có một cái gì đó chớm nở trong đầu Tôn Đức Thắng”(4).

“Cái gì đó” mà Trần Bạch Đằng nói tới là khi Tôn Đức Thắng chào đời nước ta bắt đầu nô lệ nước ngoài. Còn riêng An Giang, cảnh tượng đau lòng diễn ra sớm hơn, từ 1867, tức 21 năm trước khi Cù lao Ông Hổ sản sinh ra nhân vật sau này trở thành tiêu biểu cho tinh thần bất khuất Việt Nam.

“Cái gì đó” là chuyện khởi nghĩa Bãi Thưa ngay trên quê hương An Giang, chuyện Mười tám thôn Vườn Trầu, chuyện Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám.

“Cái gì đó” là ta hiểu Tôn Đức Thắng từ góc độ một người dân miền châu thổ sông Cửu Long tuổi thành niên trùng khớp với những năm đầu thế kỷ XX - nhiệt tâm yêu nước trước bao ngã rẽ và là nhiệt tâm yêu nước của một con người không xuất thân từ vọng tộc thế gia hay từ sĩ phu, một thanh niên con nhà không giàu mà không phải thuộc tầng lớp bần cố nông. “Tôn Đức Thắng, trên ý nghĩa ấy, đại diện được cho số đông nhân dân Nam Bộ, những tầng lớp mà hành động xuất phát từ nhận định của bản thân qua quan sát và tự hòa lẫn vào cuộc sống khi chủ nghĩa thực dân đã đứng vững và khi văn minh công nghiệp lần hồi chiếm lĩnh các điểm mấu chốt trên mặt bằng chính trị, kinh tế, xã hội ở Nam Bộ Việt Nam”(5).

“Cái gì đó” chính là Cù lao Ông Hổ sát thành phố Long Xuyên, không xa Chợ Mới, không xa Cù lao Giêng. Cù lao Ông Hổ nơi Tôn Đức Thắng sinh ra được thiên nhiêu ban cho nhiều ưu đãi nhưng cũng không ít khắc nghiệt, thử thách. Vì vậy, người dân cù lao chịu thương, chịu khó, hiền lành nhưng cũng rất táo bạo, dũng cảm, đoàn kết với một lối sống nhân ái, phóng khoáng. Tức là những yếu tố tác động từ bên ngoài vào nhân dân một vùng sớm khai phá nhờ phù sa đắp bồi và các cù lao phì nhiêu, thuận lợi giao thông, là địa bàn sớm sản xuất hàng hóa từ những sản vật nông nghiệp; là nơi văn hóa phương Tây, qua đạo Thiên Chúa - thâm nhập vào.

Tư chất thông minh, ham học, cứng cỏi, thích bênh vực kẻ yếu ngày càng bộc lộ rõ nét trong con người Hai Thắng khi học ở Trường tiểu học Long Xuyên và trong “địa ngục trần gian” Côn Đảo. Hình ảnh hiên ngang, bất khuất của người tù khổ sai Tôn Đức Thắng trong Hầm xay lúa ở ngục tù Côn Đảo thể hiện phong cách sống, phong cách chiến đấu. Đó mãi mãi là bản anh hùng ca của người cộng sản trước quân thù. Nguyễn Duy Trinh, người bạn tù với Tôn Đức Thắng kể: “Tôi mến phục tinh thần bình đẳng, dân chủ thực sự, tính thật thà cầu chân lý của người đồng chí lớn tuổi. Được gần gũi anh Thắng ở Khám Lớn (Sài Gòn) cũng như sau này ở Hầm xay lúa Côn Đảo, tôi cũng như tất cả anh em bao giờ cũng quý yêu ở đồng chí đức khiêm tốn rất cao, tấm lòng ngay thẳng, độ lượng, ý thức tập thể vững chắc”(6).

2. Phong cách lãnh đạo không tỏ ra là người có quyền lực, ham quyền lực

Anh em, bạn bè, đồng chí phát hiện ra nhiều điều đặc biệt trong phong cách Tôn Đức Thắng. Giáo sư Trần Văn Giàu kể: “Trong nhà Bác ở Hà Nội bao giờ cũng có một chỗ để sửa xe, hình như Cụ “ghiền” máy móc thì phải, xe đạp của con cháu hư hỏng thì Cụ Tôn tự sửa. Là Phó Chủ tịch nước mà Cụ thật bình dị. Cụ thường mặc chiếc áo nâu và việc ăn uống của Cụ cũng bình thường. Khi tôi đến thăm thì vào cửa sau, mà khi ra về bao giờ Cụ Tôn cũng đưa ra tận cửa cái. Cụ Tôn khi là Phó Chủ tịch mà tôi thấy vẫn cưỡi xe đạp. Cụ thường mặc áo nâu, sống hết sức giản dị”(7).

Phong cách Tôn Đức Thắng được nhìn nhận trên nhiều phương diện khác nhau, như: phong cách làm việc dân chủ, tập thể, quần chúng, nêu gương, chu đáo, cẩn thận, ngăn nắp, có mục đích, kế hoạch rõ ràng; phong cách lãnh đạo không bao giờ tỏ ra là con người có quyền lực, ham quyền lực, tự nhận là lãnh tụ.

 Tôn Đức Thắng là người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người hoạt động không mệt mỏi trong thực tiễn và rất ít nói về mình. Cuộc đời và sự nghiệp Tôn Đức Thắng tỏ rõ phong cách “mỗi đảng viên và cán bộ phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; “lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt”(8). Phong cách Tôn Đức Thắng là phong cách “một con người bình thường - vĩ đại”(9). Theo Trần Bạch Đằng, Tôn Đức Thắng không phải là nhà lý luận, nhà tư tưởng hay nhà sáng tác. Tôn Đức Thắng là con người hành động, hành động tiên phong. “Bác Tôn luôn muốn sống như một con người thật bình thường. Chính vì thế, Bác Tôn vĩ đại. Không phải dễ thành bất tử như Bác Tôn - Ủy viên Trung ương Đảng nhiều năm, đứng đầu Mặt trận  đoàn kết dân tộc hàng mấy thập kỷ liền, thay Bác Hồ giữ cương vị Chủ tịch nước - nhưng chưa một lần Bác tỏ ra là con người có quyền lực, ham quyền lực, tự nhận là lãnh tụ. Bác thích vị trí một đảng viên cộng sản như mọi đảng viên, thích vị trí công dân trung thực, lương thiện, cố mang điều tốt, cố mang niềm vui, cố giảm nỗi đau cho đồng bào. Nhớ Bác Tôn, nhớ bài học mà Bác lấy cả đời mình làm mẫu, chính là tìm cái vĩ đại trong cái bình thường của một con người, coi như đơn giản mà cực kỳ phức tạp khó khăn đối với những ai nắm quyền trong tay. Kính chào Tôn Đức Thắng tức kính chào nền luân lý vĩ đại trong cái bình thường, bình thường một cách vĩ đại”(10).

Trên sáu mươi năm đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp cứu nước và giải phóng giai cấp công nhân, Tôn Đức Thắng đã tỏ rõ lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “con người bên trong của Bác Tôn, ở tuổi 90 mà phẩm chất cách mạng kiên cường ở Bác vẫn trong sáng, hồn nhiên. Năm tháng và bão tố có làm thay đổi nhiều về dáng vẻ bên ngoài, nhưng tâm hồn và ý chí cách mạng, tình cảm với đồng bào, đồng chí, sự khiêm tốn giản dị, lòng vị tha quên mình thì không hề thay đổi. Đó vẫn luôn luôn là đức tính của người chiến sĩ cộng sản Tôn Đức Thắng”.

Từ năm 1946, Bác Tôn có nhiều năm hoạt động và sống gần gũi với Bác Hồ, Giữa hai Bác đã hình thành một tình thân ái, gắn bó sâu sắc. “Cũng như Bác Hồ, Bác Tôn là một con người đẹp từ việc lớn đến việc nhỏ, lúc ở Côn Đảo cũng như lúc ở Phủ Chủ tịch. Và cũng như Bác Hồ, Bác Tôn rất vui tính, thích bông đùa, nói ít, làm nhiều, suốt đời hiến dâng nghị lực, tài năng và tâm huyết cho sự nghiệp lớn của nước, của dân”(11).

GS Trần Văn Giàu cho rằng “Cụ Tôn không phải là một nhà lý luận mà là người tiên phong cách mạng, người mà cả cuộc đời dành cho giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng dân tộc. Cụ Tôn là người không viết sách. Trên đời lắm người, lắm nhân vật không viết một quyển sách nào mà người đời vẫn nhắc nhở luôn về con người ấy, nhân vật ấy. Cụ Tôn khác với những nhân vật khác ở chỗ, Cụ không có một tác phẩm nào cả, có chăng là chúng ta ghi lại những điều Cụ nói thôi. Tuy nhiên, theo tôi, tác phẩm hay nhất của Cụ chính là cuộc đời của Cụ. Cụ Tôn là một người hành động, một người có lẽ không có ý gì muốn để lại cho đời sau bằng các tác phẩm của mình. Nhưng thực tế Người đã để lại cho đời sau chúng ta rất nhiều “tác phẩm” bằng hành động, bằng việc làm và những lời nói. Đó là những tác phẩm hay hơn nhiều những bài viết”(12).

Được gặp Cụ Tôn nhiều lần ở An toàn khu, một lần duy nhất được chụp ảnh với Cụ, Giáo sư Trần Văn Giàu chia sẻ “đời của Tôn giản dị đến thế thì cần phải có những bài viết hay để nêu lên được tấm gương giản dị của Cụ, làm nhiều, nói ít, không đòi hỏi gì về vật chất, thương anh em, nhất là đồng bào Nam Bộ tập kết ra Bắc, đó là những tấm gương sáng của Cụ Tôn”.

Đồng chí Hà Đăng, khi còn là trợ lý Tổng Bí thư, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương viết về Tôn Đức Thắng-người bạn lớn của Bác Hồ, kể lại nhiều câu chuyện thú vị về phong cách của Bác Tôn: “Dù là Chủ tịch nước, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Mặt trận, Bác Tôn luôn luôn sống một cuộc sống khiêm tốn và giản dị, nhân từ và đức độ, trung thực và nghĩa tình, khiến cho mọi lớp tuổi đều nhìn thấy ở Bác một người anh cả, một người cha, một người ông trong gia đình. Chúng ta đã nghe nói nhiều về những chuyện sinh hoạt bình thường của Bác mà cứ như nghe những câu chuyện huyền thoại. Bác được tin có người bạn tù cũ đang công tác ở nông trường Lương Sơn (Hòa Bình), đã tự mình đến thăm mà không chờ bạn đến với mình, bởi Bác nghĩ “có thể bạn bè thấy tôi làm Chủ tịch nước họ ngại nên tôi phải đến gặp trước”. Bác dành một phần tiền lương hàng tháng của mình để nuôi con một cán bộ không may qua đời. Bác tự mình sửa chữa chiếc xe đạp hay chiếc rađiô riêng của mình khi bị hỏng hóc. Bác tự tay chăm sóc người vợ hiền bị bệnh nặng trước lúc lâm chung. Thì giờ ngoài công việc, Bác thường dành cho công nhân, nông dân, cho những bạn bè thân hữu, cho những đồng bào bị hoạn nạn trong chiến tranh. Năm 1957, Bác về thăm nông trang Nam Bộ ở Quý Cao (Hải Phòng), Bác đến từng gia đình hỏi han việc làm ăn, sinh sống”(13).

Những đồng chí đã cùng hoạt động với Bác Tôn thời kỳ bí mật cũng như cùng làm việc với Bác những năm sau này khi Bác là Chủ tịch nước, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, hay Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều thấy ở Bác một phong cách không hề thay đổi. Đó là đức tính, phong cách công nhân khiêm tốn, giản dị, chân thành, hòa mình trong quần chúng. Chủ tịch Tôn Đức Thắng luôn nêu cao tính tổ chức, tính nguyên tắc, việc lớn việc nhỏ, nhất thiết tuân thủ quyết định của tổ chức, của tập thể. Bác thường nhắc nhở, sức mạnh của Đảng là ở tổ chức, toàn Đảng chỉ có một ý chí, một sự đoàn kết nhất trí trên cơ sở đường lối chính trị và những nguyên tắc tổ chức của Đảng.

Phong cách Tôn Đức Thắng không phải tự nhiên mà có, không phải bẩm sinh. Trần Bạch Đằng nhận xét: “Tinh hoa dân tộc, cốt lõi miền đất phóng khoáng và mộc mạc An Giang, tính cách thợ mà thành phố Sài Gòn và cả phong trào công nhân Pháp hun đúc, chủ nghĩa Mác - Lênin, lý tưởng cộng sản, trí tuệ và đức độ của Hồ Chí Minh - tất cả tổng hợp nên một Tôn Đức Thắng, gia tài cả nước, của Nam Bộ và An Giang, sản phẩm của phong trào công nhân thế giới, tiếng vọng đầy kiêu hãnh của Cách mạng Tháng Mười Nga”(14).

Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh đồng chí Tôn Đức Thắng là dịp để mỗi chúng ta tự soi lại mình mà hành động, nói đi đôi với làm, làm nhiều, nói ít, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.

______________________

(1) Câu nói của Hồ Huân Nghiệp trước khi bị giặc đem ra hành hình.

(2) Đại nghĩa - cứu nước là cái nghĩa lớn nhất theo nhận xét của dân tộc Việt Nam. Chữ Nghĩa, cùng với “đại nghĩa” còn có “tụ nghĩa”, “xướng nghĩa”, tức là tập hợp nhân dân nổi lên chống ngoại xâm; “Ứng nghĩa” tức là những người tòng quân thành nghĩa quân để cứu nước; “khởi nghĩa” là nổi dậy cầm vũ khí giết giặc giành lại chủ quyền như khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Bắc Sơn, tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Cách mạng, kháng chiến chống xâm lược là chính nghĩa. Chúng ta có nghĩa vụ tồng quân, nghĩa vụ lao động.

(3) Trần Văn Giàu: “Bảy ngọn núi An Giang trong cuộc đời gần trăm năm của cụ Tôn Đức Thắng”, Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980), An Giang, 1988, tr.75.

(4), (5), (8), (9), (10) (14) Trần Bạch Đằng: “Một con người bình thường - vĩ đại”, Tôn Đức Thắng người cộng sản mẫu mực biểu tượng của đại đoàn kết, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.211, 210-211, 210, 215, 215

(6) Con đường cách mạng (Hồi ký nhiều tác giả), NxbThanh niên, Hà Nội, 1970, tr.52-53.

(7) Xem Trần Văn Giàu: “Cụ Tôn đã để lại cho chúng ta “tác phẩm cuộc đời”, Tôn Đức Thắng người cộng sản mẫu mực biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr.180-181.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.292.

(11) Phạm Văn Đồng: “Bác Tôn-nhà cách mạng bất tử”, Tôn Đức Thắng người cộng sản mẫu mực biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr.26.

(12) Trần Văn Giàu: “Cụ Tôn đã để lại cho chúng ta “tác phẩm cuộc đời”, trongTôn Đức Thắng người cộng sản mẫu mực biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr.181.

(13) Hà Đăng: “Người bạn lớn của Bác Hồ”, Tôn Đức Thắng người cộng sản mẫu mực biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr.152-153.

 

PGS, TS Bùi Đình Phong

Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền