Trang chủ    Quốc tế    Chiến lược của một số “cường quốc” tại khu vực Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ XXI và tác động đối với Việt Nam
Thứ sáu, 06 Tháng 1 2017 10:16
10477 Lượt xem

Chiến lược của một số “cường quốc” tại khu vực Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ XXI và tác động đối với Việt Nam

(LLCT) - Đông Nam Á (ĐNA) có vị trí địa - chính trị đặc biệt, là điểm xoáy chiến lược, giao thoa quyền lợi của nhiều cường quốc lớn trên thế giới như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ… Mỗi quốc gia có những mục tiêu chiến lược, sách lược và lợi ích riêng đối với khu vực này. Nghiên cứu, tìm hiểu cục diện khu vực cùng những “tham vọng” chiến lược và sách lược cũng như thực trạng quá trình cạnh tranh, gia tăng ảnh hưởng của các nước nàysẽ giúp người đọc có cái nhìn toàn cảnh hơn đối với tiến trình phát triển của khu vực và thế giới.

Chiến lược của Mỹ

Trước hết về lợi ích kinh tế, khu vực Đông Á nói chung và ĐNA nói riêng là thị trường đầu tư khổng lồ, tiêu thụ lượng hàng hóa lớn,mang lại lợi nhuận cao cho Mỹ. Các nước trong khu vực chủ yếu là những nước đang phát triển, thiếu vốn và công nghệ khá lạc hậu, nhưng sức lao động rẻ, lại đang có chính sách kích thích đầu tư nước ngoài, nhất là vào các ngành công nghệ cao (sản xuất ô tô, máy tính, điện thoại di động...) vốn là lĩnh vực thuộc ưu thế của Mỹ và các nước tư bản phát triển. Hơn thế, các nước ĐNA đang hình thành nên tầng lớp trung lưu khá giả càng làm gia tăng sức mua của thị trường. Những quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi trong khu vực sẽ tham gia nhiều hơn vào hệ thống phân công lao động theo chiều dọc mà “chuỗi giá trị” sản xuất ra sản phẩm có công nghệ cao do phương Tây và Nhật Bản chi phối. Điều này mang lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư nước ngoài và có lợi cho người tiêu dùng trong nước.

Về lợi ích chính trị, an ninh. ĐNA đóng một vai trò quan trọngtrong chiến lược an ninh CA-TBD của Mỹ. Đồng thời, Đông Á còn là một trong những khu vực có lực lượng quân sự dày đặc, tiềm lực phát triển quân sự lớn và vấn đề phổ biến vũ khí hạt nhân nghiêm trọng nhất thế giới. Mỹ rất lo lắng về vấn đề phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt ở châu Á, như vấn đề hạt nhân ở Triều Tiên và Iran, Ấn Độ và Pakixtan. Bên cạnh đó, Đông Á đã trở thành "mặt trận thứ hai" trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu của Mỹ. Sau sự kiện 11-9-2001, Chính quyền Mỹđặt mục tiêu chống khủng bố vào trọng tâm chiến lược an ninh quốc gia. Nước Mỹ cho rằng thế lực chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo ở Nam Á và ĐNA tạo thành mối đe dọa nghiệm trọng đối với lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực CA-TBD. Mặt khác, trở lại ĐNA, Mỹ muốn thực hiện chiến lược chung là củng cố chặt chẽ liên minh Mỹ - Nhật - Hàn song song với việc triển khai chiến lược CA-TBD. Nhiều quốc gia tại Đông Á và ĐNA là bạn bè đồng minh truyền thống của Mỹ (Nhật Bản, Hàn Quốc, Philíppin và Thái Lan). Singapore hợp tác chặt chẽ với Mỹ trên lĩnh vựcquân sự. Các nước khác như Indonexia và Việt Nam có những lợi ích chung quan trọng với Mỹ và nhiều khả năng sẽ trở thành các đối tác an ninh và chiến lược gần gũi hơn trong những năm tới. Trở lại ĐNA, Mỹ chẳng những nối lại quan hệ cũ mà còn có thể cải thiện và phát triển quan hệ với các đồng minh mới như Ấn Độ, xây dựng được vành đai liên kết an ninh từ Đông Bắc Á xuống ĐNA, vươn sang Ấn Độ Dương, xây dựng liên minh chiến lược châu Á có lợi cho Mỹ bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và ASEAN.

Sau Chiến tranh Lạnh, nhất là trong thập niên đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc nổi lên như một cường quốc khu vực toàn diện, một trung tâm quyền lực chính, có khả năng lớn đe dọa trật tự châu Á. Việc điều chỉnh từ chính sách đối ngoại “dấu mình chờ thời” sang chủ động đề ra luật chơi, “vạch ra những đường đỏ” trong quan hệ quốc tế của Trung Quốc cùng với sự phát triển về thực lực kinh tế, quốc phòng đã tạo nên những thách thức tiềm tàng đối với Mỹ. Bên cạnh đó, Nhật Bản đang theo đuổi mục tiêu “đuổi kịp về chính trị - ngang tầm với kinh tế”, canh tân quân đội để trở thành một “cường quốc bình thường” cũng ít nhiều khiến Mỹ trăn trở. Hơn thế, việc nước Nga từng bước phục hồi trong thập niên đầu thế kỷ XXI và đang điều chỉnh chính sách cân bằng Đông - Tây, quan tâm nhiều hơn đến các nước Châu Á, chú trọng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, Ấn Độ, tham dự nhiều hơn vào các cơ chế hợp tác khu vực cũng là những thách thức đối với việc duy trì vị thế của Mỹ ở châu Á nói chung và ĐNA nói riêng.

Như vậy, lợi ích của Mỹ tại CA-TBD là không thể phủ nhận. Một chiến lược cân bằng tốt và được xác định rõ ràng sẽ tạo cơ sở cho một chính sách thực tế và lâu dài của Mỹ đối với châu Á. Bằng nhiều nỗ lực, chính quyền Obama đang thực hiện những chiến lược cạnh tranh với các cường quốc lớn trên thế giới nhằm giành lại địa bàn ảnh hưởng và vị thế chủ đạo tại đây.

Chiến lược củaTrung Quốc

Đối với Trung Quốc, trong lịch sử cũng như hiện tại, ĐNA luôn là khu vực có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Trung Quốc đang tích cực tận dụng thực lực kinh tế và uy tín chính trị trong việc mở rộng mối quan hệ trên tất cả các phương diện với ASEAN. Về mặt vị trí, hầu hết các đặc khu kinh tế, các thành phố, hải cảng và vùng đồng bằng giàu có của Trung Quốc đều tập trung ở phía Đông Nam, tiếp giáp các nước ASEAN. Ngoài ra, ĐNA còn là nơi làm ăn và sinh sống của đông đảo Hoa Kiều, với hơn 22 triệu người. Đối với một số nước như Singapore, Malayxia, người Hoa đóng vai trò quan trọng về kinh tế thương mại, bất chấp thời gian hay sự thay đổi chế độ chính trị. Đây có thể coi là lợi thế tuyệt đối của Trung Quốc ở khu vực ĐNA. Vì vậy, một trong những hướng mở cửa quốc gia của Trung Quốc là khu vực ĐNA, với mong muốn xây dựng mối quan hệ kinh tế thương mại phát triển tại đây.

Quan hệ ASEAN - Trung Quốc bắt đầu khởi động từ năm 1991 qua việc Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc họp không chính thức với các nước ASEAN. Năm 1996, Trung Quốc trở thành một bên đối thoại đầy đủ của ASEAN. Trung Quốc muốn mở rộng ảnh hưởng của mình tại khu vực ĐNA, còn các nước ASEAN lại muốn mình trở thành đối tác quan trọng và xâm nhập sâu rộng vào thị trường khổng lồ với hơn một tỷ dân của Trung Quốc. Hợp tác kinh tế - thương mại đã trở thành con đường thuận lợi để cả hai phía đạt được lợi ích của mình. Biên giới mềm (hàng hóa tiêu dùng và văn hóa tinh thần) của Trung Quốc trải dài khắp các quốc gia ĐNA. Cùng với sức mạnh vật chất (sức cạnh tranh hàng hóa cao, vốn dự trữ ngoại tệ hàng nghìn tỷ USD) uy tín chính trị - ngoại giao của Trung Quốc cũng đang tăng lên nhanh chóng (luôn sẵn sàng viện trợ cho các nước khó khăn trong khu vực). Trong khi mậu dịch song phương của ASEAN với Mỹ, Nhật, EU giảm mạnh ở những năm cuối thập kỷ 90 thì quan hệ kinh tế - thương mại giữa ASEAN với Trung Quốc lại tăng đều đặn và ổn định, nhất là sau khi Hồng Kông trở về Trung Quốc. Năm 2012, kim ngạch thương mại hai chiều Trung Quốc - ASEAN đã đạt hơn 400 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ. Tính đến hết tháng 10-2014, tổng mức đầu tư hai chiều đạt khoảng 347tỷ USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ, mức tăng gấp hơn ba lần so với mức tăng của ngành ngoại thương Trung Quốc(1). Trong 4 đối tác thương mại chủ yếu của Trung Quốc (Liên minh châu Âu, Mỹ, ASEAN và Nhật Bản), mức tăng nhanh nhất là thương mại với ASEAN. Dự kiếnnăm 2020, Trung Quốcsẽ tăng lượng trao đổi thương mại với các nước thành viên Hiệp hội ĐNA (ASEAN) lên 2,5 lần - tức là khoảng1nghìntỷ USD. ASEAN đã trở thành điểm đến đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp Trung Quốc. Ngoài ra, trong những năm gần đây, Trung Quốc còn lập ra các Quỹ đầu tư giá trị hàng chục tỷ USD dành cho các nước ASEAN vay với lãi suất ưu đãi nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là đối với các nước thuộc Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (GMS). Việc phát triển mối quan hệ hợp tác nhiều mặt với các quốc gia ĐNA giúp Trung Quốc tăng khả năng cạnh tranh với Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và EU trong khu vực.

Chiến lược của Nhật Bản tại ĐNA

Về lợi ích kinh tế: Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi một cách cơ bản các nền kinh tế lạc hậu và phụ thuộc ở ĐNA, từ chỗ lệ thuộc vào phương Tây chuyển sang tự nghiên cứu và phát triển các kỹ thuật công nghệ thích ứng. Với đặc trưng là nền kinh tế hướng ngoại, xuất nhập khẩu trở thành hai lá phổi quan trọng của nến kinh tế Nhật Bản. Sự mở rộng cơ hội thương mại và đầu tư tại các nước có nền kinh tế mới chuyển đổi ở ĐNA, như Việt Nam, đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Nhật Bản. Các nền kinh tế này sẽ giúp Nhật Bản đổi mới công nghệ, gia tăng xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng chất xám cao bằng cách chuyển một bộ phận nhà máy có công nghệ vừa phải ra nước ngoài và đóng vai trò là nhà cung cấp linh kiện, dây chuyền sản xuất hiện đại cho việc lắp ráp, sản xuất hàng xuất khẩu tại nước đó. Trong bối cảnh gia tăng cạnh tranh kết hợp với xu thế liên kết khu vực, nhất là sự trỗi dậy của Trung Quốc như “một công xưởng thế giới”, thì sự bổ sung giữa nền kinh tế Nhật Bản với các nền kinh tế còn lại của Đông Á có ý nghĩa chiến lược với Nhật Bản. Hơn nữa, sự khan hiếm về mặt nhiên liệu, năng lượng cũng là một bài toán khó cho Nhật Bản, buộc nước này phải tăng cường hợp tác năng lượng với các quốc gia có tiềm năng về nguồn dự trữ tài nguyên trong khu vực. Chính vì vậy, chính sách “ngoại giao kinh tế”, trong đó có “ngoại giao ODA” kết hợp với “ngoại giao văn hóa” là hướng đi đang được người Nhật chú trọng, nhằm không chỉ duy trì, mà còn gia tăng lợi ích chiến lược kinh tế, chính trị của Nhật Bản trên trường quốc tế.

Về lợi ích chính trị và an ninh: Nhật Bản là một trong những nước nằm trên “vành đai địa - chính trị nhạy cảm, thiếu ổn định về an ninh”. Điều này đã và đang tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức đối với lợi ích quốc gia - dân tộc của Nhật Bản cả hiện tại lẫn tương lai. Với vị trí địa - chính trị đặc biệt, án ngữ tuyến đường biển nối liền các khu vực có tiềm lực kinh tế, chính trị và quân sự lớn như Đông Bắc Á, Trung Đông, Australia và một số quốc gia thuộc  khu vực CA-TBD, khu vực ĐNA đóng vai trò thiết yếu trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, trong đó có Nhật Bản. Đối với Nhật Bản, ĐNA được coi là bàn đạp cho mục tiêu trở thành cường quốc khu vực của Nhật Bản, đồng thời nước này coi quan hệ với ASEAN là khâu đột phá mở rộng ảnh hưởng của Nhật tại khu vực CA-TBD cũng như trên toàn thế giới. An ninh quốc gia của Nhật Bản phụ thuộc rất lớn vào sự an toàn trên các tuyến đường biển quốc tế chảy qua lãnh hải của các nước ĐNA. Không chỉ đảm nhận vai trò vận chuyển, xuất nhập khẩu hàng hóa, nhu yếu phẩm cần thiết cho đời sống và sản xuất của người dân Nhật (có khoảng hơn 80% hàng hóa nhập khẩu của Nhật đi qua khu vực Biển Đông), các tuyến đường biển ở ĐNA còn là cầu nối căn cứ quân sự của Mỹ ở Okinawa với các tuyến phòng thủ do Mỹ lập ra để đảm bảo an ninh quân sự cho Nhật Bản ở Đông Á. ĐNA thực sự là nơi Nhật Bản có thể tìm kiếm vai trò chính trị tương xứng với sức mạnh kinh tế sau Chiến tranh Lạnh, trở thành một “cường quốc đầy đủ” trên thế giới. Trong bối cảnh đó, Chính phủ Nhật Bản xem việc phát triển quan hệ với các nước trong khu vực ĐNA là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược ngoại giao “Quay về Châu Á” của mình.

Chiến lược của Ấn Độ

Sau khi trật tự hai cực Xô - Mỹ sụp đổ, nắm lấy những thời cơ thuận lợi, Ấn Độ thực hiện thành công chính sách “Hướng Đông” - một trong những cơ sở quan trọng nhất tạo nên vị thế và vai trò của Ấn Độ ở khu vực CA-TBD hiện nay. Ấn Độ đã tạo dựng được mối quan hệ gần gũi với Mỹ, nỗ lực tiến tới bình thường hóa quan hệ với Pakistan, quan hệ thân thiện với Trung Quốc, đối thoại quan hệ với Nga, mở rộng ảnh hưởng tại Ấn Độ Dương và đạt được những vai trò nhất định trong khu vực ĐNA. Với mục tiêu giành một ghế đại diện cho khu vực châu Á trong Hội đồng Bảo an LHQ khi tổ chức lớn nhất hành tinh này cải tổ, Ấn Độ đang thực hiện chiến lược vận động mạnh mẽ, thông qua Chính sách hướng Đông,gần đây là Hành động hướng Đông, trong đó tập trung phát triển mối quan hệ hợp tác với các quốc gia Đông Á, nhằm nâng cao hơn vị thế và ảnh hưởng của nước này tại khu vực.

Về phương diện kinh tế: Xét về địa lý, tiến vào Thái Bình Dương qua eo biển Malacca là con đường đi sang phía Đông thuận lợi nhất của Ấn Độ. Đông Á cũng giàu có về nguyên liệu thô và năng lượng, những tài nguyên mà Ấn Độ rất “khát” cho sự phát triển đất nước trong tương lai. Yếu tố gần gũi về văn hóa cũng là tiền đề thuận lợi cho sự phát triển quan hệ hợp tác mọi mặt giữa Ấn Độ và ĐNA. Ấn Độ tiến hành cải cách kinh tế trong bối cảnh Mỹ và Tây Âu vẫn duy trì chính sách bảo hộ thương mại mạnh, do đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng tại Đông Á đã trở thành lực hút quan trọng đối với Ấn Độ. Bước sang thế kỷ XXI, các nước ĐNA đang có bước phát triển vượt bậc về kinh tế với chính sách kích thích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghệ cao, viễn thông, công nghệ thông tin, công nghiệp phần mềm... vốn là lĩnh vực thuộc ưu thế của Ấn Độ. Các nhà hoạch định kinh tế của Ấn Độ cho rằng, thông qua các cơ chế hợp tác với ASEAN, Ấn Độ có thể bảo đảm không bị cô lập khi mà các thỏa thuận mậu dịch mang tính khu vực đang trở thành xu thế chung. Trên thực tế, Ấn Độ hy vọng mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với ASEAN sẽ làm cầu nối giúp nước này hòa nhập vào một cộng đồng kinh tế lớn hơn bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Về phương diện chính trị - an ninh, thương mại trên biển của Ấn Độ gắn trực tiếp với những eo biển nằm ở khu vực ĐNA như Sun-đa, Lom-bo, đặc biệt là eo biển Malacca, nơi có lượng tàu thuyền qua lại mỗi năm gần gấp đôi lượng tàu thuyền qua kênh đào Xuy-ê và gần gấp ba lần kênh đào Panama. Chú trọng quan hệ hợp tác với các quốc gia Đông Á sẽ giúp Ấn Độ bảo vệ các hoạt động thương mại trên biển, chống lại nạn cướp biển, buôn lậu ma túy tại khu vực Tam giác vàng. Trên thực tế, trong bối cảnh các quốc gia châu Á đang xích lại gần nhau, các cường quốc lớn trong và ngoài khu vực đang tìm mọi cách gia tăng ảnh hưởng về kinh tế và chính trị đối với Đông Á, sẽ là bất lợi nếu Ấn Độ đứng ngoài tiến trình này.

Tác động đến Việt Nam

Những biến động và trật tự quyền lực giữa các nước lớn, với sự suy giảm tương đối của Mỹ và Nhật Bản, sự nổi lên của Ấn Độ, Nga và đặc biệt là Trung Quốc trong thập niên đầu thế kỷ XXI, đã tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp tục theo đuổi chiến lược đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế, trên cơ sở đó củng cố nền độc lập, tự chủ và mở rộng hội nhập quốc tế.Vai trò và sự gia tăng sức mạnh của các cường quốc như Nhật Bản, Ấn Độ theo hướng cùng tồn tại và phát triển trong hòa bình cũng góp phần củng cố quan hệ láng giềng hữu nghị vốn có của các nước này tại Đông Á, ĐNA và trong mối quan hệ với Việt Nam. Hợp tác khu vực đã gia tăng cơ hội buôn bán, đầu tư, giao lưu văn hóa giữa nhiều chủ thể trong quá trình liên kết. Nhận thức rõ vị trí địa - chiến lược đặc biệt của Việt Nam, nơi tiếp giáp, là cầu nối của phần đất liền và biển đảo giữa ĐNA và Trung Quốc, có tuyến đường hàng hải và vị trí chiến lược trong phòng thủ quốc tế cùng trữ lượng tài nguyên thiên nhiên giàu có, Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ đều muốn cải thiện và tăng cường quan hệ với Việt Nam, nhằm can dự vào các vấn đề của ĐNA và kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực này. Như vậy, cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn ở Đông Á, ĐNA càng gia tăng, vai trò và vị trí địa - chính trị của Việt Nam càng được nâng cao hơn trước.  

Mặt khác, xu hướng đa cực hóa và gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc cũng tạo ra nhiều thách thức đối với an ninh và phát triển của Việt Nam. Tham vọng bá quyền, kiểm soát không gian địa - chính trị của các nước này gây ra nhiều khó xử cho chúng ta trong việc lựa chọn đối tác, phân biệt, đề phòng và hạn chế các đối tượng trong quan hệ quốc tế. Nếu không có một đường lối ngoại giao khéo léo, xử lý hài hòa các mối quan hệ trong tương quan quyền lực ảnh hưởng khu vực, rất dễ dẫn đến những mâu thuẫn và hiểu lầm không đáng có giữa các bên. Ngoài ra, “mưu đồ” cùng những “tính toán chiến lược” của các quốc gia này trong tranh chấp ảnh hưởng tại ĐNA cũng gián tiếp tạo ra trở ngại đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Thông qua các hình thức hợp tác, viện trợ phát triển, mối quan hệ gắn kết về ý thức hệ chính trị, tư tưởng về bạn, thù từng tồn tại trong lịch sử cùng nhiều khác biệt về hệ thống chính trị, văn hóa, tôn giáo... các thế lực thù địch vẫn ngày đêm lợi dụng sơ hở để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”“Tự diễn biến”, lôi kéo phân hóa nội bộ Việt Nam. Với những hạn chế trong quá trình hội nhập cùng tiềm lực kinh tế thấp, Việt Nam có nguy cơ trở thành “thuộc địa” cung cấp nguồn nguyên liệu thô cho các nước phát triển và trở thành “bãi rác” công nghiệp của hàng hóa, máy móc lạc hậu nhập ngoại, đồng thời phải đối mặt với hiểm họa khi môi trường trở nên ô nhiễm trầm trọng. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của văn hóa và sức mạnh tiền bạc cũng có thể làm xói mòn và biến dạng bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Với Việt Nam, chiến lược cạnh tranh ảnh hưởng của hai cường quốc lớn Nhật Bản và Ấn Độ tại khu vực, dù là gia tăng can dự để hợp tác hay là để kìm chế tầm ảnh hưởng lẫn nhau, cũng đều tạo ra những tác động nhất định đến quá trình phát triển đất nước. Hiện nay, vị thế của ĐNA nói chung và Việt Nam nói riêng đang và sẽ tiếp tục được nâng lên. Những thành tựu củasự nghiệp đổi mới đất nước cùng chính sách đối ngoại hòa bình, độc lập, tự chủ, hữu nghị đã tạo nên thế và lực mới cho Việt Nam. Tăng cường thúc đẩy quan hệ với Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản, kể cả trên những lĩnh vực nhạy cảm như hợp tác đảm bảo an ninh - quốc phòng, đồng thời khai thác một cách có hiệu quả vị thế “cửa ngõ”, “đầu cầu”, “hạt nhân đoàn kết” trong khu vực là những việc làm hết sức cần thiết, là yếu tố quan trọng đảm bảo thực hiện chiến lược “đa dạng hóa, đa phương hóa” của nước ta trong thời kỳ mới.

_______________

(1) http://vietnamese.china.com/news/eastasia/810/20141030/194596.html

 

ThS Ngô Phương Anh

                            Viện Quan hệ quốc tế

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền