Trang chủ    Thực tiễn    Pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam
Thứ hai, 25 Tháng 4 2016 10:54
3070 Lượt xem

Pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam

(LLCT) - Pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong thực hành quyền công tố đã được hoàn thiện một bước căn bản về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; kết quả công tác thực hành quyền công tố thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đặc biệt là tình trạng án oan, sai giảm dần. Tuy nhiên, pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và tổ chức, hoạt động của VKSND còn một số bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực hành quyền công tố của kiểm sát viên.

1. Quy định pháp luật về kiểm sát viên VKSND

Sau Cách mạng Tháng Tám, khái niệm quyền công tố chưa xuất hiện, song nội dung, nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản của quyền công tố dần hình thành cùng với quá trình thành lập và hoạt động của tòa án. Quyền công tố được thực hiện bởi “Công cáo ủy viên” sau đó là “Công tố ủy viên”,“phó Công tố ủy viên”. 

Ngày 1-7-1959 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 256/TTg, quy định về tổ chức và nhiệm vụ của Viện Công tố, với tư cách là một hệ thống cơ quan độc lập, tách khỏi tổ chức của Tòa án và quản lý của Bộ Tư pháp. Viện Công tố trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm, quyền hạn ngang Bộ. Viện công tố có chức năng, nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật của Nhà nước, truy tố theo pháp luật hình sự những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của dân, bảo đảm công cuộc kiến thiết và cải tạo XHCN.

Tại Hiến pháp năm 1959 đã quy định chế định VKSND và các chức danh pháp lý kiểm sát viên (KSV), KSV dự khuyết; và sau đó Quốc hội ban hành Luật tổ chức VKSND (VKSND). Hệ thống cơ quan VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn này được xem như một quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án hình sự và đây là cơ sở pháp lý để KSV thực hành quyền công tố trong giải quyết vụ án hình sự cụ thể, sau khi có quyết định phân công của Viện trưởng VKSND.

Thực hiệnHiến pháp năm 1980, năm 1981 Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức VKSND. Theo đó, VKSND ngoài chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, còn được luật định hoá chức năng thực hành quyền công tố nhà nước. Trên thực tiễn, hai chức năng luôn có sự thống nhất, không tách rời mà bổ trợ cho nhau. Luật cũng mở rộng thẩm quyền, nâng cao vai trò của Viện trưởng VKSND tối cao trong thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân thủ pháp luật, đó là trao quyền ra quyết định đình chỉ và buộc phải sửa chữa những hành vi vi phạm pháp luật có thể gây hậu quả nghiêm trọng. Tiếp đó Hội đồng nhà nước phê chuẩn Quy chế về ngạch KSV. Theo đó, KSV VKSND tối cao do Hội đồng nhà nước cử, bãi nhiệm; các KSV VKSND địa phương do Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức.

Thực hiện Hiến pháp năm 1992, với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Quốc hội thông qua Luật tổ chức VKSND năm 1992, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh KSV VKSND (1993).

Với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố nhà nước, VKSND và KSV VKSND các cấp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm công dân, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đều phải được xử lý theo pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực thi nghiêm minh.

Trong điều tra vụ án, KSV thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội; việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật, công bằng: Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn; huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra. Yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi, xử lý nghiêm minh điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; nếu hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự. Quyết định truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra.

Trong công tác xét xử, KSV VKSND thực hành quyền công tố trong phiên tòa của Toà án nhân dân cùng cấp, trong trường hợp cần thiết Viện trưởng VKSND có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Từ năm 2014, sau khi Luật tổ chức VKSND năm 2014 được ban hành, hợp nhất Luật tổ chức VKSND năm 2002 và Pháp lệnh về KSV năm 2002, tạo cơ sở cao nhất và thống nhất cho hoạt động của KSV VKSND trong thực hành quyền công tố, đặc biệt lần đầu tiên Luật đã có sự phân định rõ chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, đưa việc thực hành quyền công tố ngay từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tội phạm cho đến khi kết thúc xét xử, bảo đảm được mục tiêu ngay từ đầu của chức năng công tố.

2. Thực trạng thực hành quyền công tố

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,KSV đã chủ động hơn trong việc tham mưu cho Viện trưởng, lãnh đạo VKSND trong việc theo dõi, khởi tố vụ án hình sự và khẩn trương yêu cầu điều tra tội phạm.Từ năm 2006 đến năm 2012, VKSND các cấp đã yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hàng trăm vụ án, bị can. Từ năm 2006 - 2012, Viện kiểm sát các cấp đã yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố 1.678 vụ án; trong đó được cơ quan điều tra chấp nhận và ra quyết định khởi tố 1.259 vụ án (75,3 %). Năm 2013, số vụ án VKSND yêu cầu khởi tố 470 bị can, tăng 22,7%, đã kiểm sát 100% vụ án hình sự ngay từ khi khởi tố; đã hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra và ra quyết định khởi tố hàng trăm vụ án.

Năm 2013-2014, VKSND các cấp tiếp tục tăng cường nâng cao trách nhiệm của KSV trong việc giải quyết tố giác tin báo về tội phạm, qua đó đã yêu cầu khởi tố 405 vụ (giảm 8,3% so với năm 2012), trực tiếp khởi tố và yêu cầu điều tra 20 vụ (giảm 71% so với năm 2012); hủy 92 quyết định không khởi tố, ta quyết định khởi tố và yêu cầu điều tra(theo Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2013).

Ngày 5-12-2013, Viện trưởng VKSND tối cao đã có Chỉ thị số 06/CT-VKSTC về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Qua triển khai thực hiện cho thấy, KSV VKSND các cấp đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra để bám sát quá trình điều tra để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra sát với vụ án, đẩy nhanh tiến độ điều tra vụ án, hạn chế tình trạng điều tra kéo dài; khắc phục cơ bản việc lạm dụng bắt khẩn cấp, việc hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự, tạm giam, tạm giữ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân; hạn chế đáng kể việc bắt oan, sai; hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa Viện kiểm sát và cơ quan điều tra; Số vụ án Viện kiểm sát truy tố đạt tỷ lệ cao so với tổng số vụ án đã kết thúc điều tra. Năm 2002, Viện kiểm sát các cấp truy tố đạt 96% so với số vụ đã kết thúc điều tra; giai đoạn 2006 -2007 đạt 99,1%, năm 2008 đạt 99%, năm 2009 đạt 98,68%, năm 2010 là 96,57%, năm 2011 là 96,91%, 6 tháng đầu năm 2012 là 92,17%; năm 2013 là 99,34%; trong đó, bảo đảm truy tố bị can đúng tội đạt 99,72%.

Trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự,quán triệt chủ trương cải cách tư pháp, KSV VKSND các cấp đã chủ động, tích cực phối hợp với tòa án tổ chức nhiều phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp, qua đó nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích của các đương sự tại phiên tòa; nắm chắc hồ sơ từ khi khởi tố vụ án đến khi xét xử, KSVđã chủ động tham gia xét hỏi, kiểm tra tài liệu, chứng cứ; tích cực, chủ động tham gia tranh luận, đối đáp với luật sư và các chủ thể khác tham gia tranh tụng tại phiên tòa, đã góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực trong công tác xét xử của tòa án các cấp, phiên tòa được diễn ra dân chủ và bình đẳng hơn.

Việc rút kinh nghiệm tổ chức các phiên tòa trong nhiều năm đã được VKSND các cấp tăng cường nhằm mục tiêu 100% KSV thực hành tốt quyền công tố tại các phiên tòa hình sự, đã tổ chức 4.072 phiên tòa rút kinh nghiệm trong năm 2013, tăng 37,8% so với năm 2012, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả tranh tụng của KSV, bảo đảm hiệu lực, vai trò của quyền công tố trong việc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội trong các phiên tòa xét xử vụ án hình sự.

Về tổ chức, hoạt động của VKSND và KSV,nguyên tắc “tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành” luôn được quán triệt thực hiện nghiêm túc. Quy định này vừa đảm bảo mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể, vừa đề cao trách nhiệm của Viện trưởng VKSND.

- Luật tổ chức VKSND năm 2014 tiếp tục phân bổ sung ngạch KSV VKSND tối cao, nâng tổng số ngạch KSV lên 4 ngạch (gồm 3 ngạch theo các pháp lệnh trước đó). Mỗi cấp viện kiểm sát được bố trí nhiều loại KSV; địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với KSV VKSND được thực hiện theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014.

3. Một số bất cập, vướng mắc

a) Về thể chế

Thứ nhất,về phạm vi thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, theo khoản 1 Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa”. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 23 lại quy định phạm vi thực hiện quyền công tố (và kiểm sát) rộng hơn sang cả lĩnh vực thi hành án. Điều này thể hiện sự chưa rõ ràng giữa việc thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự và quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp khác (như thi hành án).

Khắc phục hạn chế này, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ ràng phạm vi nội hàm hai loại quyền công tố và quyền kiểm sát hoạt động tư pháp, theo đó, KSV thực hành quyền công tố được giới hạn như khoản 1, 2 Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự và quyền kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ bao hàm cả lĩnh vực tố tụng hình sự và các hoạt động tư pháp khác. Do vậy, trong thời gian tới, việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự cần điều chỉnh, thống nhất với Luật tổ chức VKSND năm 2014.

Thứ hai,BLTTHS năm 2003 còn thiếu các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên, VKSND khi thực hành quyền công tố trong các giai đoạn khởi tố, truy tố, xét xử, dẫn đến hạn chế sự chủ động của KSV VKSND trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, thiếu các cơ chế pháp luật để KSV VKSND theo dõi, tham mưu thực hiện tốt trách nhiệm này. Quy định VKSND phải chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho Cơ quan điều tra nhưng chưa quy định trách nhiệm của Cơ quan điều tra thông báo trở lại cho VKSND các tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận được; chưa quy định cụ thể trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát đối với hoạt động khởi tố, điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự). Luật lại thiếu các biện pháp áp dụng trong trường hợp cơ quan điều tra và điều tra viên không thực hiện đầy đủ các yêu cầu của VKSND (Điều 114).

Thứ ba,Bộ luật tố tụng hình sự chưa có sự phân định rõ giữa thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn thực hành quyền công tố của KSV với Lãnh đạo VKSND trực tiếp quản lý Kiểm sát viên. KSV vừa phải tuân theo pháp luật, vừa phải thực hiện sự chỉ đạo của Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc người được sự ủy quyền của Lãnh đạo VKSND. Các quyết định tố tụng của VKSND là quyết định của Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng trên cơ sở báo cáo, tham mưu của Kiểm sát viên.

b) Trong thi hành pháp luật về thực hành quyền công tố của KSV

-  Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Công tác thực hành quyền công tố của KSV vẫn chưa thực sự chủ động trong việc thu thập chứng cứ nên một số vụ phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần, nhất là những vụ án tham nhũng, kinh tế và chức vụ.

Còn trường hợp bỏ lọt tội phạm trong quá trình điều tra hoặc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam oan, sai hoặc phải đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội... Thời hạn điều tra, xử lý một số vụ án, nhất là án tham nhũng, án trọng điểm còn có trường hợp bị kéo dài, trong đó có trách nhiệm của KSV.

- Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự

Chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của một số KSV còn chưa cao, chưa ngang tầm với yêu cầu cải cách tư pháp, có KSV còn thụ động, lúng túng khi xét hỏi bị cáo, chưa tích cực tranh luận để bác bỏ những luận điểm không đúng của người bào chữa và những người tham gia tố tụng…

Một số vụ án có bản án chưa phù hợp nhưng KSV chưa kịp thời tham mưu cho Lãnh đạo VKSND kháng nghị kịp thời.

c) Về tổ chức, hoạt động của VKSND và KSV

- Công tác đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát các cấp có lúc còn nóng vội. Theo Báo cáo tổng kết Luật tổ chức VKSND và các Pháp lệnh năm 2002 cho thấy, có thời gian (từ 2004 - 2006), tổ chức bộ máy các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra ở VKSND tối cao và VKSND cấp tỉnh chưa được cân nhắc kỹ lưỡng, nên đã thực hiện việc sáp nhập các đơn vị, sau đó qua hoạt động thực tiễn, thấy rằng không phù hợp, nhất là trong mối tương quan với tổ chức của cơ quan điều tra Bộ Công an, nên lại phải tách ra cho phù hợp.

- Một số nơi, hoạt động của Viện kiểm sát còn bị chi phối bởi sự tác động của các cấp chính quyền, chưa tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc độc lập, không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương.

- Pháp luật quy định mỗi cấp Viện kiểm sát có nhiều ngạch KSV, nhưng lại chưa quy định về cơ cấu, tỷ lệ mỗi loại KSV ở mỗi cấp; chưa phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các loại KSV.

- Về điều kiện hoạt động của Viện kiểm sát, kinh phí bảo đảm hoạt động của ngành còn thấp so với yêu cầu thực tế. Chính sách, chế độ tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, KSV chậm được điều chỉnh, bổ sung tương xứng với quyền hạn, trách nhiệm được giao.

4. Một số đề xuất 

- Cần quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của KSV VKSND trong thực hành quyền công tố, nhất là các quy định chưa được làm rõ trong Luật tổ chức VKSND năm 2014.

Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật có quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ với nhau, đan xen nhau, hỗ trợ nhau ngay trong từng hoạt động thực hiện chức năng của KSV. Song, cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của KSV các cấp trong thực hành quyền công tố và mối quan hệ với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.

- Bổ sung nguyên tắc VKSND có thẩm quyền quyết định miễn tố, giao cho Viện trưởng VKSND quyết định trên cơ sở đề xuất của KSV được giao phụ trách thực hiện vụ án.

- Cần cơ chế bảo đảm các yêu cầu của VKSND được tuân thủ triệt, trong đó đề cao vai trò của KSV trong việc thực hành quyền công tố.

- Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS về về nhiệm vụ, quyền hạn của KSVtheo hướng cụ thể hơn nhằm nâng cao tính chủ động và tính tự chịu trách nhiệm về những hành vi và quyết định của mình trong điều tra khám phá tội phạm.

- Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, cần sửa đổi các quy định để KSV phải tích cực thẩm vấn, tranh luận với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, để làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án.

- Cần có những quy định tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành trong tiếp nhận, quản lý thông tin tội phạm một cách đầy đủ và kịp thời, thực hiện tốt việc phân loại, xử lý tội phạm ngay từ đầu để chống lọt tội phạm và chống làm oan người vô tội, làm rõ nguyên nhân tội phạm không được phát hiện. VKSND các cấp cần chú trọng tổng kết và thực hiện tốt đường lối truy tố đối với các loại tội phạm.

- Cụ thể hóa các quy định về bảo đảm hoạt động của VKSND như: giao cho Viện trưởng VKSND tối cao thẩm quyền quyết định biên chế; số lượng và cơ cấu KSV các cấp Viện kiểm sát để bảo đảm tính chủ động, linh hoạt trong việc bố trí, sắp xếp cán bộ; xác định rõ thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Viện trưởng VKSND tối cao trong việc quy định, cấp phát trang phục, giấy chứng minh, giấy chứng nhận các chức danh tư pháp.

_________________                                                          

1. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp: Báo cáo sơ kết hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, Hà Nội, 2004.

2. ĐCSVN: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội, 2002.

3. ĐCSVN: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 22/6/2005 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội, 2005.

4. Dương Thanh Biểu: Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.

5. GS, TS Nguyễn Đăng Dung (chủ biên): VKSND trong Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2014

6. VKSND tối cao: Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 ban hành Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự, 2008.

7. VKSND tối cao: Báo cáo số 02/BC-VKSTC ngày 09/01/2014 về Tổng kết thực tiễn thi hành Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh KSV VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011), Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự năm 2002, Hà Nội, 2014.

8. VKSND tối cao: Báo cáo số 11/BC-VKSTC ngày 19/01/2015 về Tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nọi 2014.

ThS Lê Tuấn Phong

                                                         Viện Kiểm sát Quân sự Khu vực 51

 

 

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền