Trang chủ    Thực tiễn    Phát triển kinh tế biển theo hướng kinh tế xanh ở Đồng bằng sông Cửu Long
Thứ hai, 19 Tháng 9 2016 16:11
2725 Lượt xem

Phát triển kinh tế biển theo hướng kinh tế xanh ở Đồng bằng sông Cửu Long

(LLCT) - Đồng bằng sông Cửu Long có thiên nhiên đa dạng, là vùng đồng bằng trù phú, rộng lớn nhất ở Việt Nam; có vị trí đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là vùng kinh tế nông nghiệp, thủy sản lớn nhất nước có nhiều tiềm năng và nguồn lực để phát triển kinh tế biển theo hướng kinh tế xanh.

Kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và trên đất liền mà trực tiếp liên quan đến khai thác biển. Do đó, kinh tế biển rất đa dạng về cơ cấu ngành nghề, trong đó có nhiều ngành then chốt như dầu khí, hải sản, hàng hải… mà vùng đồng bằng sông Cửu Long có lợi thế và tiềm năng để phát triển.

Theo Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc (UNEP) thì “Kinh tế xanh là nền kinh tế nâng cao đời sống con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái”. Theo đó, kinh tế xanh là những hoạt động sản xuất thân thiện với môi trường, tăng trưởng theo chiều sâu, tăng trưởng bền vững, phát triển hài hòa và đạt được công bằng xã hội.

Như vậy phát triển kinh tế biển theo hướng kinh tế xanh là phát triển mang tính bền vững mà toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh đều thân thiện với môi trường sinh thái, vì lợi ích con người và hướng tới công bằng xã hội.

Trong những năm qua, tăng trưởng kinh tế của vùng đồng bằng sông Cửu Long luôn gấp đôi bình quân cả nước. Vùng đồng bằng sông Cửu Long đóng góp 52% sản lượng thủy sản, 66% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Nhưng chủ yếu vẫn là khai thác tài nguyên với hiệu quả thấp, công nghệ khai thác và chế biến lạc hậu… Vì thế, việc chuyển sang phát triển kinh tế xanh là phương án tối ưu cho sự phát triển bền vững của vùng.

1. Tiềm năng, lợi thế để vùng đồng bằng sông Cửu Long phát triển kinh tế biển theo hướng kinh tế xanh

Đồng bằng sông Cửu Long tiếp giáp cả biển Đông và biển Tây với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% chiều dài bờ biển cả nước; hơn 360 nghìn km2vùng biển và đặc quyền kinh tế, có nhiều đảo và quần đảo, đặc biệt có đảo Phú Quốc lớn nhất Việt Nam, với tiềm năng phát triển kinh tế biển to lớn. Hai lợi thế quan trọng để phát triển kinh tế biển theo hướng xanh hóa: (1) Tiềm năng tự nhiên (lợi thế tĩnh) với bờ biển dài, diện tích lãnh hải rộng, nguồn lợi tự nhiên phong phú, đa dạng (thủy - hải sản, khoáng sản, dầu khí, cảnh quan biển, đảo...). (2) Có vị trí địa - kinh tế và địa - chiến lược (lợi thế động) do nằm kề tuyến hàng hải Đông - Tây, là một cửa ngõ quan trọng, sôi động.

 Bên cạnh đó là nhiều yếu tố để phát triển kinh tế biển theo hướng xanh hóa,  như tiềm năng về năng lượng tái tạo rất lớn (năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng thủy triều,...); Lực lượng lao động dồi dào, trẻ.

Trong những năm qua, vùng đồng bằng sông Cửu Long có sự phát triển vượt bậc về các mặt. Đó là thành tựu bước đầu thực hiện chiến lược phát triển, Quy hoạch xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050, Quyết định số 492/QĐ-TTg, ngày 16-4-2009, của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Và gần đây là Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14-8-2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long, thời kỳ 2011-2020. Quyết định số 2190/QĐ-TTg, ngày 24-12-2009 của Thủ tướng Chính phủ “Về Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”. Đây sẽ là tiền đề quan trọng để vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể xuất nhập - khẩu hàng hóa giao thương với các nước, góp phần thúc đẩy kinh tế biển phát triển.

Cùng với cả nước, để thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, các tỉnh đã xây dựng và triển khai thực hiện chương trình hành động phát triển kinh tế biển, bước đầu tạo ra những chuyển biến tích cực. Đất “Chín Rồng” tiếp tục phát huy thế mạnh thủy sản, du lịch biển, đảo, bước đầu khai thác lợi thế công nghiệp năng lượng khí - điện. Một số công trình trọng điểm được đầu tư xây dựng trên địa bàn như: Trung tâm khí - điện - đạm Cà Mau, đường ống dẫn khí Lô B - Ô Môn dài gần 400 km, Trung tâm điện lực Duyên Hải (Trà Vinh), điện lực Long Phú (Sóc Trăng); đặc biệt là hệ thống điện gió Bạc Liêu đã được đưa vào sử dụng nên việc phát triển kinh tế biển đang chuyển dần từ kinh tế truyền thống sang kinh tế xanh. Các khu kinh tế ven biển như Phú Quốc (Kiên Giang), Định An (Trà Vinh); nhóm cảng biển 6 trong vùng cũng được đầu tư, nâng cấp, tạo cơ sở cho ngành hậu cần logistic phát triển. 

2. Khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển kinh tế biển theo hướng kinh tế xanh

Bên cạnh những thuận lợi, vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng đang đứng trước nhiều thách thức trong phát triển kinh tế biển theo hướng kinh tế xanh. Một trong những khó khăn lớn nhất là cách tiếp cận phát triển kinh tế biển của vùng là từ tư duy, cách làm truyền thống. Chưa giải quyết được mối quan hệ giữa phát huy lợi thế bậc nhất về nông nghiệp (sản xuất lúa gạo, thủy sản, trái cây) với kinh tế biển (vận tải biển, hậu cần logistic). Điển hình là hệ thống nhóm cảng biển 6 và luồng, nhất là luồng Định An (Sông Hậu) vẫn ách tắc việc vận tải phục vụ xuất - nhập khẩu nông sản và nguyên liệu sản xuất; hoạt động du lịch biển, đảo, để khai thác lợi thế và phục vụ phát triển kinh tế biển... còn nhiều hạn chế.

Mặc dù đã được đầu tư hạ tầng cảng, công nghiệp khí - điện, nhưng các khu kinh tế ven biển, vận tải biển và dịch vụ, du lịch biển, đảo còn ở trình độ thấp. Công tác lập quy hoạch, điều tra cơ bản, phát triển khoa học và công nghệ biển, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu, nước biển dâng chưa đạt yêu cầu. Bên cạnh đó, vấn đề tổ chức không gian phát triển và đầu tư kinh tế biển cho vùng còn hạn chế. Chẳng hạn, cảng An Thới, cảng Tắc Cậu (Kiên Giang) là những cảng quan trọng nhưng đang xuống cấp nghiêm trọng.

Nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế biển còn nhiều khó khăn, đặc biệt là đầu tư từ ngân sách nhà nước và doanh nghiệp còn quá ít. Do vậy phát triển kinh tế biển chủ yếu vẫn là khai thác tài nguyên thiên nhiên có sẵn, kinh tế của vùng quá phụ thuộc vào khai thác thô, sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và năng lượng hóa thạch; trình độ sản xuất ở mức thấp; năng suất lao động chưa cao, cơ sở hạ tầng yếu kém; trình độ khai thác lạc hậu, thiếu sự liên kết vùng. Những yếu tố đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế biển theo hướng kinh tế xanh. Đồng thời, trong quá trình phát triển kinh tế biển theo hướng xanh hóa, một trong những thách thức nghiêm trọng đó là tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

Mặt khác, việc hình thành và phát triển các mô hình kinh tế biển theo hướng xanh hóa đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn hơn so với kiểu phát triển kinh tế truyền thống, đồng thời, việc phát triển kinh tế xanh còn đụng chạm đến lợi ích của một bộ phận doanh nghiệp như xăng dầu, sản xuất điện truyền thống, khai khoáng.

3. Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế biển theo hướng kinh tế xanh ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

Một là, đẩy mạnh liên kết vùng

Trong những năm qua, các tỉnh thành trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là 7 tỉnh ven biển (Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau) đã triển khai thực hiện các chương trình hành động phát triển kinh tế biển, bước đầu tạo ra những chuyển biến tích cực. Song, thực tế đang đòi hỏi các địa phương phải liên kết lại với nhau trong Chiến lược phát triển kinh tế biển. Đẩy mạnh liên kết vùng không chỉ là đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn sôi động của vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp lớn nhất nước, mà đây còn là cơ hội để khai thác tiềm năng kinh tế biển. Liên kết vùng để phát triển kinh tế biển theo hướng xanh hóa là một chủ trương đúng, nhưng để liên kết vùng có hiệu quả, thì cần có một cơ chế pháp lý rõ ràng và mạnh mẽ hơn giữa chính quyền các địa phương với nhau. Việc liên kết cần được tổ chức theo cơ chế, mô hình, có phân công, phân vai rõ ràng giữa các địa phương, từ đầu tư các công trình trọng điểm vùng như cảng biển, khu kinh tế ven biển, phát triển kinh tế biển, du lịch biển đảo, đến kết nối các công trình đầu tư và phát triển kinh tế biển của các tỉnh, thành, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí.

Vấn đề xây dựng, hoàn thiện và vận hành cơ chế tổ chức liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long trong quy hoạch đầu tư phát triển, liên kết các ngành kinh tế biển, liên kết thị trường hiệu quả cũng là một yêu cầu cấp bách hiện nay.

Hai là, phải có thể chế, chính sách phù hợp với đặc thù của vùng

Để đồng bằng sông Cửu Long phát triển kinh tế biển bền vững, chúng ta phải triển khai một cách đồng bộ, từ chất lượng, hiệu quả đầu tư đến hợp tác quốc tế. Yêu cầu quan trọng hàng đầu là phải lựa chọn mục tiêu trọng tâm, lựa chọn điểm đột phá, khắc phục tình trạng dàn trải, phân tán trong đầu tư phát triển kinh tế biển, nhằm khắc phục tình trạng lãng phí và kém hiệu quả như thời gian qua. Đồng thời, cần có cơ chế, chính sách mạnh mẽ hơn cho kinh tế biển ở đồng bằng sông Cửu Long, bởi cho đến nay, vẫn chưa có gì đặc biệt thoát ra khỏi khung chính sách khuyến khích đầu tư chung, mà điển hình rõ nhất là trường hợp của Phú Quốc. Để phát triển Phú Quốc, tạo “đòn bẩy” cho sự phát triển kinh tế biển của vùng, từ năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 178/QĐ-TTg, Phê duyệt “Đề án phát triển tổng thể đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020”, nhằm phát triển đảo Phú Quốc trở thành khu kinh tế biển đặc thù, một trung tâm giao thương, dịch vụ, du lịch tầm cỡ quốc gia, khu vực và thế giới, với cơ chế được hưởng ưu đãi ở mức cao nhất so với cả nước. Mặc dù hiệu quả tích cực từ Quyết định 178 là không thể phủ nhận, nhưng hơn 10 năm thực hiện, đến nay Phú Quốc vẫn chưa phát triển như kỳ vọng ban đầu.

Cần tiếp tục ưu tiên đầu tư, phát triển đảo Phú Quốc trở thành “đặc khu kinh tế biển mang tầm cỡ quốc tế”; tiếp tục đầu tư “Tứ giác động lực” (Cần Thơ - Cà Mau - Kiên Giang - An Giang), gắn kết yêu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp với công nghiệp, kinh tế biển, ứng phó biến đổi khí hậu và nước biển dâng, trong đó, chú ý phát triển hài hòa hành lang ven biển và các đô thị ven biển trong vùng. Đồng thời, phát triển toàn diện ngành hải sản thành tiểu vùng kinh tế hải sản trọng điểm của cả nước. Xây dựng Cần Thơ thành trung tâm hậu cần logistic của vùng, Kiên Giang thành trung tâm nghề cá và dịch vụ lớn của cả nước..

Để ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng thì việc phát triển kinh tế biển theo hướng kinh tế xanh là việc làm cần thiết, nếu như các tỉnh thành vùng đồng bằng sông Cửu Long không sớm thay đổi tư duy kinh tế, thì chắc chắn sẽ gặp nhiều hệ quả không mong muốn, nhất là trong tình hình biến đổi khí hậu và nguồn tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng cạn kiệt như hiện nay .

________________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 11-2015

Tài liệu tham khảo

1. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ và Trung tâm thông tin Sài Gòn: Tây Nam Bộ tiến vào thế kỷ XXI, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.

2. Đậu Xuân Luận, Đặng Việt Thủy: Tìm hiểu về biển, đảo Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2013.

3. Hà Minh Hồng (Chủ biên): Nhìn ra biển khơi, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2012.

4. Lê Công Hội: “Kinh tế xanh lên ngôi”, Hồ sơ Sự kiện (Chuyên san của Tạp chí Cộng sản), Số 138, ngày 22 -10- 2010.

5. Vũ Văn Hiền: Thời luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.

6. Trần Hữu Hiệp: “Kinh tế xanh đồng bằng sông Cửu Long - nhìn từ biển”, Tạp chí Cộng sản (Chuyên đề cơ sở), Số 87 (3 - 2014).

7. Những điều cần biết về các chính sách về biển và hải đảo của Việt Nam, Nxb Thanh niên, 2014.

8. Quan điểm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội về đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, Nxb Văn học, 2014.

9. Trần Văn Tư: Đồng bằng sông Cửu Long trên đường phát triển - Tiềm năng và Lợi thế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.

 

TS Trương Quang Khải

Phạm Ngọc Hòa

Học viện Chính trị Khu vực IV

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền