Trang chủ    Thực tiễn    Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử bảo đảm tinh thần Hiến pháp năm 2013
Thứ ba, 25 Tháng 10 2016 17:05
5072 Lượt xem

Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử bảo đảm tinh thần Hiến pháp năm 2013

(LLCT) - Chủ trương, quan điểm của Đảng về nguyên tắc tranh tụng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp. Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Như vậy, lần đầu tiên, việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được ghi nhận thành một nguyên tắc, thể hiện bước tiến lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật của nước ta.  

Tranh tụng tại phiên tòa hình sự là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, là yêu cầu cấp bách trong việc bảo đảm tính khách quan, công bằng, dân chủ, là căn cứ để xác định sự thật vụ án và là cơ sở để hội đồng xét xử ra bản án đúng đắn, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra yêu cầu “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp” và Nghị quyết số 37/2012/HQ13 ngày 23-11-2012 của Quốc hội khoá XIII yêu cầu Tòa án nhân dân Tối cao chỉ đạo các tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa; bảo đảm việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật... Như vậy, tranh tụng trong quá trình tố tụng nói chung và trong xét xử nói riêng là một trong những nội dung trọng tâm và là khâu đột phá của cải cách tư pháp.

Chủ trương, quan điểm của Đảng về nguyên tắc tranh tụng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp. Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Như vậy, lần đầu tiên, việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được ghi nhận thành một nguyên tắc, thể hiện bước tiến lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật của nước ta.  Nội hàm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử có các nội dung cơ bản sau:

Một là,hoạt động xét xử phải bảo đảm tranh tụng giữa kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng khác; tranh tụng là trọng tâm của hoạt động xét xử.

Hai là, các bên tranh tụng bình đẳng với nhau về quyền đưa ra tài liệu, chứng cứ, yêu cầu; đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng của mình; bình đẳng trong đối đáp, tranh luận, chứng minh, bác bỏ quan điểm lẫn nhau.

Ba là, kiểm sát viên và người tham gia tranh tụng phải tranh tụng với tinh thần trách nhiệm, trên cơ sở chứng cứ khách quan và quy định của pháp luật; với tinh thần tôn trọng lẫn nhau, có văn hóa ứng xử.

Năm là, tòa án ra phán quyết phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện các luận điểm, luận cứ và luận chứng của các bên tranh tụng.

Sáu là, tòa án có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các quy định của pháp luật theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự để các bên tham gia tranh tụng.

Với các nội dung trên, phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc tranh tụng chủ yếu là tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự; bắt đầu từ khi tòa án mở phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa và tập trung trong phần tranh luận của kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng.

Giải quyết vụ án hình sự một cách công khai, dân chủ, công bằng, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm công lý, quyền con người là trách nhiệm không chỉ thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn là quyền của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, đồng thời cũng là đòi hỏi của xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình tố tụng hình sự giải quyết vụ án thì tòa án chiếm vị trí trung tâm. Trong hoạt động xét xử, tranh tụng có vai trò rất quan trọng để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Vai trò đó thể hiện trên các khía cạnh sau:

Thứ nhất, xét xử là biểu hiện tập trung, tiêu biểu nhất hiệu quả của tranh tụng trong quá trình tố tụng hình sự

Về bản chất, quá trình tranh tụng chính là quá trình tranh luận, chứng minh để xác định sự thật khách quan về vụ án. Không những thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự mà tranh tụng còn là cơ sở để xác định địa vị tố tụng, vị trí, vai trò và chức năng của các chủ thể tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể tham gia tố tụng. Vì thế, tranh tụng không chỉ là phương pháp nhằm thực hiện mục đích xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự mà còn là một nguyên tắc của tố tụng hình sự.

Tại giai đoạn điều tra, đã có một số yếu tố của tranh tụng cùng với sự xuất hiện của bên buộc tội và bên bào chữa. Tuy nhiên những đặc điểm của tranh tụng chỉ có đủ khi xuất hiện chức năng tài phán của người trọng tài. Như vậy, đặc điểm, tính chất của tranh tụng thể hiện rõ nét nhất trong giai đoạn xét xử. Về hình thức, tranh tụng tại phiên tòa là hình thức tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật của bên buộc tội và bên bào chữa trước tòa án. Nội dung tranh tụng là chứng minh hoặc phủ nhận tính hợp pháp của nội dung quyết định buộc tội. Tất cả mọi hoạt động của các chủ thể ở phiên tòa đều tập trung kiểm tra tính xác thực và hợp pháp của từng nội dung trong cáo trạng truy tố. Trong tố tụng hình sự, giai đoạn xét xử được coi là trung tâm, và trong các cấp xét xử thì cấp sơ thẩm lại có vai trò quan trọng nhất bởi vì toàn bộ vụ án và mọi vấn đề liên quan đến vụ án được xem xét và quyết định tại giai đoạn này. Xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong đó, tòa án có thẩm quyền phán quyết có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội hay không, nếu có tội sẽ áp dụng loại, mức hình phạt nào.

Tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia đầy đủ nhất của tất cả các chủ thể của hai bên (buộc tội, bào chữa) và các chủ thể khác tham gia vào quá trình tố tụng. Như vậy, chỉ có tại phiên tòa, các chức năng tố tụng cơ bản: buộc tội, gỡ tội, tài phán được phân định rõ ràng giữa bên buộc tội, bên bào chữa, tòa án và cũng chỉ tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, vai trò của bên buộc tội, bên bào chữa được xác định là các bên có quyền bình đẳng với nhau trong việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật cho phép để thực hiện chức năng tranh tụng.

Như vậy, có thể thấy rằng ở giai đoạn xét xử, nguyên tắc tranh tụng  được thể hiện một cách đầy đủ và toàn diện nhất.

Thứ hai, điều khiển tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên thông qua vai trò của hội đồng xét xử

Về bản chất, tranh tụng trong tố tụng hình sự là một quá trình tranh luận giữa các bên về lập luận nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Tranh tụng chỉ được coi là bắt đầu khi có sự xuất hiện chức năng buộc tội và tương ứng với nó là chức năng gỡ tội. Tố tụng tranh tụng thực sự mở ra cơ hội cho các bên, bên buộc tội và bên bào chữa có một vị thế ngang nhau trong việc tìm hiểu sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ luận điểm của mình trước tòa án. Bên buộc tội, bên bào chữa đều có quyền điều tra, thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng để bảo vệ cho lý lẽ của mình và cũng là để phản bác lại luận điểm của phía bên kia. Tòa án chỉ ra phán quyết theo những chứng cứ và lý lẽ được coi là hợp pháp và bác bỏ những chứng cứ chưa đúng luật và bất hợp lý.

Thứ ba, tòa án ra các phán quyết về tội phạm và người phạm tội dựa trên kết quả tranh tụng tại tòa

Xuất phát từ một hệ tố tụng dân chủ, khách quan, công bằng, một hệ tố tụng luôn mở ra cơ hội cho các bên, một hệ tố tụng mà phán quyết dựa vào kết quả tranh tụng tại tòa án nên tố tụng tranh tụng có thể hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp kết án oan, sai. Hệ quả này bắt nguồn từ việc tố tụng tranh tụng rất đề cao quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo và không có sự phân biệt đối xử giữa công tố viên và luật sư. Hồ sơ của cơ quan điều tra, bản luận tội của viện công tố chỉ được xem là một trong những bằng chứng sẽ được kiểm định tại phiên tòa. Nếu bản luận tội tại viện công tố không cứng cỏi, lời lẽ không thuyết phục, bằng chứng không phù hợp với thực tế hay họ làm việc kém nỗ lực, tích cực hơn luật sư bào chữa của bị cáo thì cáo trạng của họ rất dễ bị đổ. Không giống như cáo trạng của viện công tố ở các nước theo hệ thẩm vấn, cáo trạng của viện công tố ở các nước theo hệ tranh tụng rất dễ phạm phải sai lầm do mục đích mà họ đặt ra là phải tìm mọi chứng cứ buộc tội một bị cáo trước tòa nên không tránh khỏi có một cái nhìn thiếu thiện chí đối với bị cáo. Chính vì lẽ đó mà luật sư bào chữa phải tìm đủ mọi chứng cứ để minh oan cho thân chủ của mình và chắc chắn là trong trường hợp này các luật sư sẽ hạn chế đến mức tối đa các trường hợp làm oan người vô tội.

Có nhiều tiêu chí đánh giá về việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự. Tuy nhiên, có thể khái quát một số tiêu chí cơ bản để đánh giá chất lượng tranh tụng như sau:

Thủ tục và cách thức tranh tụng phải nghiêm minh, dân chủ, công bằng, có văn hóa, đúng quy định của pháp luật. Các bên tham gia tranh tụng với tinh thần trách nhiệm, có căn cứ, đúng pháp luật, tôn trọng quyền và nghĩa vụ của nhau;

Luận điểm, luận cứ và luận chứng được hội đồng xét xử chấp nhận với tỷ lệ cao và ngược lại;

Chất lượng giải quyết vụ án hình sự tốt, không oan, hạn chế sai. Chất lượng giải quyết vụ án hình sự thể hiện qua các tiêu chí như: không có bị cáo bị truy tố, xét xử oan; hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp bị cáo bị truy tố, xét xử sai; tỷ lệ án sơ thẩm bị tòa án cấp phúc thẩm huỷ thấp.

Các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện tốt các hoạt động nghiệp vụ mang tính chuẩn bị cho tranh tụng tại phiên tòa (nghiên cứu hồ sơ vụ án, xây dựng hồ sơ kiểm sát, chuẩn bị bản luận tội và bài phát biểu quan điểm, xây dựng đề cương xét hỏi)...

Để đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, cần làm tốt một số yếu tố sau:

Một là, hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự theo hướng mở rộng tranh tụng trong tất cả giai đoạn của tố tụng hình sự (đặc biệt là ở giai đoạn điều tra và ở phiên tòa sơ thẩm).

Hai là, đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tranh tụng tốt.

Ba là, mở rộng những bảo đảm tố tụng cho quyền bào chữa của bị can, bị cáo; tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi nhất để luật sư tham gia tố tụng nhất là ở giai đoạn điều tra.

Bốn là, tòa án ra phán quyết phải dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Năm là, tổ chức thực hiện tốt các nguyên tắc khác của tố tụng hình sự, đặc biệt là nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền im lặng của bị can, bị cáo.

Sáu là, tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng:

- Đối với đội ngũ thẩm phán, cần nghiên cứu trong hình thức xét tuyển bằng hình thức thi tuyển. Không chỉ thi tuyển vào ngạch thẩm phán, mà phải thi tuyển từ thẩm phán sơ cấp lên thẩm phán trung cấp, từ trung cấp lên thẩm phán cao cấp, từ cao cấp lên thẩm phán tối cao.

- Đối với công tố viên (kiểm sát viên hiện nay), ngoài kiến thức về kiểm sát điều tra thì phải có kiến thức điều tra và chỉ huy điều tra; năng lực, trình độ, kinh nghiệm xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Đồng thời, cũng cần thi tuyển như đối với thẩm phán.

- Đối với điều tra viên (là người trực tiếp thực hiện việc điều tra tội phạm) thì ngoài kiến thức pháp luật cần phải giỏi về nghiệp vụ điều tra, khám phá tội phạm, nắm vững các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ. Việc bổ nhiệm điều tra viên cũng phải áp dụng hình thức thi tuyển như đối với thẩm phán và công tố viên.

Bảy là, xây dựng văn hóa pháp lý về tranh tụng trong tố tụng hình sự.

Văn hóa pháp lý nói chung và văn hóa pháp lý về tranh tụng nói riêng là một loại văn hóa mang tính đặc thù riêng, nó chẳng những mang tính văn hóa, văn minh tiến bộ của xã hội mà nó còn mang tính văn hóa tư pháp. Để giữ gìn văn hóa pháp lý, rất cần có một cơ chế để tất cả mọi người từ những cán bộ của cơ quan tư pháp như cơ qua điều tra, viện kiểm sát… đến luật sư, nhân dân đều phải thực hiện. Việt Namđang thực hiện cải cách tư pháp, mà một trong những vấn đề cần cải cách ngay là “văn hóa phiên tòa” - để phiên tòa không những là nơi xét xử mà còn là nơi giải thích và giáo dục pháp luật.

Hoạt động tranh tụng và văn hóatranh tụng đang được diễn ra ở phiên tòa dưới sự cố gắng nỗ lực của cả luật sư và kiểm sát viên. Bằng sự cố gắng trau dồi, rèn luyện, bồi đắp các tố chất nghề nghiệp, đội ngũ luật sư Việt Nam đang từng bước trở thành một thành tố không thể thiếutrong ngôi nhà chung của nền tư pháp thống nhất, góp phần xây dựng nền văn hóa pháp luật Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, hướng đến việc xây dựng nền tư pháp nhân dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN.

Phải xây dựng văn hóa pháp lý về tranh tụng: thể hiện tính tôn nghiêm của phiên tòa khiến cho người dân khi tham gia phiên tòa cũng như những người đến chứng kiến tham dự phiên tòa đều có ý thức tôn trọng các thành viên trong hội đồng xét xử, kiểm sát viên, luật sư, nghiêm túc thực hiện các nội quy phiên tòa, giữ trật tự phiên tòa…. Các thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải tuân thủ triệt để việc phổ biến nội quy phiên tòa trong mọi phiên tòa dù đó là vụ án đặc biệt nghiêm trọng như giết người, án xâm phạm an ninh quốc gia, án xử các tội phạm về ma túy… hay trong trường hợp phiên tòa chỉ có một mình bị cáo, đối với các vụ án ít nghiêm trọng. Bên cạnh đó, cần có nhiều cuộc hội thảo và chuyên đề về văn hóa tư pháp và văn hóa xét xử tại phiên tòa, để góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật mang đầy đủ tính pháp luật, tính văn hóa, làm cơ sở cho văn hóa xét xử tại phiên tòa đạt được những đỉnh cao xứng đáng là trung tâm có vai trò quan trọng trong văn hóa tư pháp.

Tám là, bảo đảm chế độ tiền lương và chính sách ưu đãi cho cán bộ.

Hiện nay,lương và chế độ chính sách đối với cán bộ công chức ngành tòaán rất thấp,cụ thể như khi được bổ nhiệm mới thẩm phán sơ cấp thì lương bậc 1 với hệ số là 2,67 trong khi đó người thẩm phán đó trước khi được bổ nhiệm thì đang hưởng lương ở bậc thư ký là 2,66. Với mức lương như vậy thì không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt bình thường của mình và gia đình. Vì vậy,cần tănglương đểđáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu,từ đótránh những hiện tượng tiêu cực trong xét xử cũng như giải quyết các loại án.

Để góp phần bảo đảm độc lập trong xét xử và sự tận tâm công tác của thẩm phán cần nghiên cứu chế độ bổ nhiệm thẩm phán suốt đời (hiện nay nhiệm kỳ thứ 2 của thẩm phán đã được nâng lên 10 năm), với chế độ lương cao để tránh những cám dỗ của cuộc sống khi xét xử, đồng thời quy định việc bãi miễn chỉ có thể được thực hiện thông qua việc cáo buộc.

Có như vậy mới bảo đảm đội ngũ cán bộ công chức nói chung, thẩm phán nói riêngtận tâm toàn ý với công việc của mình mà thực hiện nhiệm vụ được giao hiệu quả nhất.

Chín là, tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và ngành tòa án nói riêng.

Các cấp, các ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ, đề ra kế hoạch chi tiết từng bước giao đất và cấp kinh phí để xây dựng các cơ quan tư pháp tại các địa phương ngang tầm với vị thế theo như tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 6-2-2005 của Bộ Chính trị. Đây không những là những đòi hỏi cấp bách của các cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan xét xử nói riêng, nên việc sớm xây dựng các trụ sở khang trang, uy nghiêm sẽ tạo điều kiện rất lớn cho các cơ quan này hoàn thành tốt nhiệm vụ.Cần tăng cường phương tiện và những thiết bị thiết yếu cho các cơ quan xét xử.Việc xét xử lưu động ở cấp huyện cần được cấp kinh phí để phục vụ phiên tòa.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2016

ThS Phạm Văn Tuyển

Tòa án Nhân dân tỉnh Hải Dương

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền