Trang chủ    Thực tiễn    Về công nghiệp văn hóa Việt Nam
Thứ hai, 23 Tháng 1 2017 18:11
5837 Lượt xem

Về công nghiệp văn hóa Việt Nam

(LLCT) - Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, văn hóa hiện nay, việc giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, các quốc gia đặt ra vấn đề bình đẳng giữa các nền văn hóa. Nền CNVH của một đất nước không phát triển sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình hiện đại hóa nền văn hóa dân tộc, ảnh hưởng lớn tới chủ trương thực hiện CNH, HĐH đất nước và là biểu hiện của việc yếu thế, mất bình đẳng, không cạnh tranh được với các sản phẩm văn hóa, nền văn hóa của nước ngoài, không phát triển được kinh tế - xã hội.

1. Công nghiệp văn hóa

Trên thế giới, việc thương mại hóa các sản phẩm mang tính ý tưởng, có liên quan đến văn hóa và nghệ thuật là tiền đề cho sự hình thành công nghiệp sáng tạo, một bộ phận của kinh tế tri thức. Công nghiệp văn hóa (CNVH) cũng thuộc kinh tế sáng tạo, thậm chí, ở một phương diện nhất định, khái niệm công nghiệp sáng tạo và CNVH được hiểu như nhau.

UNESCO định nghĩa: “công nghiệp sáng tạo bao gồm những sản phẩm mang tính sáng tạo thuộc lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật. Đó là hoạt động bắt nguồn từ sự sáng tạo, kỹ năng và năng khiếu của cá nhân, có tiềm năng tạo ra của cải, việc làm qua quá trình khai thác quyền sở hữu trí tuệ”.

Như vậy, CNVH là quá trình vận dụng kỹ thuật - công nghệ hiện đại để khai thác quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo ra những sản phẩm văn hóa mang tính sáng tạo thuộc lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật. CNVH bao gồm những hoạt động bắt nguồn từ sự sáng tạo, từ kỹ năng và năng khiếu cá nhân có vận dụng công nghệ hiện đại, có tiềm năng tạo ra của cải vật chất, tạo ra việc làm trong quá trình tiêu thụ các sản phẩm văn hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

Các ngành CNVH được UNESCO định nghĩa là: “Các ngành công nghiệp kết hợp sự sáng tạo, sản xuất và khai thác các nội dung có bản chất phi vật thể và văn hóa. Các nội dung này thường được bảo vệ bởi luật bản quyền và thể hiện dưới dạng các sản phẩm hay dịch vụ”. Hiểu theo cách này, hiện tại sẽ có các ngành sau được xếp vào danh sách các ngành CNVH: quảng cáo, kiến trúc, giải trí kỹ thuật số, mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, phim ảnh và video, in ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình và phần mềm vi tính. Các ngành CNVH xét trên phương diện sáng tạo, sản xuất, khai thác để phục vụ cho xã hội, cho con người có nhiều điểm tương đồng với các ngành công nghiệp giải trí.

Trên thế giới, CNVH phát triển đặc biệt mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XX. Đó là sản phẩm kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật cao với sự nghiệp văn hóa, thể hiện xu thế kinh tế và văn hóa hòa đồng, thấm quyện vào nhau. Phát triển CNVH dần dần thành nhận thức chung của nhiều quốc gia. Tỷ trọng CNVH trong hệ thống kinh tế của nhiều nước đã được nâng lên với tốc độ nhanh và CNVH trở thành một ngành công nghiệp trụ cột trong nhiều nền kinh tế. Các quốc gia đều rất chú trọng đến phát triển ngành công nghiệp văn hóa, xem đây là một biện pháp hữu hiệu thúc đẩy kinh tế xã hội tăng trưởng. CNVH không những có khả năng to lớn trong việc truyền bá, bảo vệ, phát huy bản sắc, giá trị văn hóa dân tộc, mà còn giữ vai trò là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế tri thức. Phát triển công nghiệp văn hóa liên quan đến thị trường hàng hóa văn hóa, giá trị thương mại, liên quan đến chính sách văn hóa, chính sách đầu tư, sự thay đổi hệ thống pháp lý cũng như hệ thống đánh giá các hoạt động và sản phẩm văn hóa của mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập. Nhiều nền kinh tế trên thế giới, sự phát triển của ngành công nghiệp văn hóa đã và đang chiếm tỷ trọng đáng kể của tổng thu nhập quốc dân, thậm chí trở thành mũi nhọn về xuất khẩu. CNVH là việc sản xuất, tái sản xuất và truyền bá các dịch vụ văn hóa và sản phẩm văn hóa được tạo ra bằng phương thức công nghiệp hóa, tin học hóa, thương phẩm hóa; Là ngành nghề sản xuất sản phẩm văn hóa và cung cấp dịch vụ văn hóa. CNVH lấy sự thỏa mãn nhu cầu văn hóa của mọi người làm mục tiêu chủ yếu. CNVH bao gồm ngành sáng tạo và biểu diễn nghệ thuật, dịch vụ tin tức, vui chơi giải trí, đào tạo văn nghệ sĩ và kinh doanh tác phẩm nghệ thuật, ngành phát hành, xuất bản, ngành phát thanh truyền hình, điện ảnh, video, quảng cáo... Lợi nhuận khổng lồ của CNVH đã được minh chứng từ các nước có nền công nghiệp phát triển như truyền thông lâu nay đã đưa tin đã khiến cho rất nhiều doanh nghiệp lớn trên thế giới đua nhau tham gia vào công cuộc phát triển ngành CNVH. Ngay nước Mỹ, một trong những mũi nhọn xuất khẩu chính là ngành vui chơi, giải trí. Sự xuất khẩu ra thế giới sản phẩm văn hóa Mỹ ngày càng phong phú đã tác động mạnh đến văn hóa dân tộc của các nước đang phát triển. Tại Canađa, chỉ riêng năm 2007 CNVH đóng góp 46 tỷ USD vào GDP và thu hút 600 nghìn lao động. Ở Nhật Bản, chỉ riêng tổng doanh thu từ bộ truyện tranh Đôrêmon - bản quyền truyền hình, xuất bản truyện tranh, làm quà lưu niệm... đã lên đến 2 tỷ USD.

2. Công nghiệp văn hóa ở Việt Nam hiện nay

CNVH là một khái niệm tương đối mới mẻ, được các nhà quản lý và hoạch định chính sách rất quan tâm. Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 của Việt Nam đề cập đến: Tập trung xây dựng cơ chế, chính sách và môi trường kinh doanh để phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án phát triển “Công nghiệp văn hóa” Việt Nam còn là một trong những đề án lớn được đề cập trong chiến lược phát triển văn hóa đến 2020.

Chủ trương của Nhà nước Việt Nam là làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội, bảo đảm sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và văn hóa, việc xã hội hóa, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm văn hóa. Trong tiến trình thực hiện, hoàn thiện chủ trương này thấy rõ chúng ta vẫn đang cố gắng tìm cơ chế, hành lang pháp lý phù hợp cho phát triển văn hóa và CNVH trong giai đoạn mới. Lý luận về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, trong đó có vấn đề phát triển ngành CNVH vẫn chưa theo kịp với sự phát triển.

Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam càng đi vào chiều sâu thì văn hóa càng phải nổi lên là một trong những trụ cột chính của sự hợp tác. Các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng đều chú trọng đến những vấn đề trọng tâm sau: sự đối thoại giữa các nền văn hóa - văn minh; chính sách nhằm bảo vệ, phát huy sự đa dạng văn hóa; vấn đề xuất nhập khẩu các sản phẩm văn hóa. Ở Việt Nam, cả nhận thức lý luận và thực tiễn để phát triển ngành công nghiệp văn hóa đang còn rất hạn chế.

 Mặc dù từ đầu những năm 90 thế kỷ XX, Việt Nam đã có nhận thức: lao động văn hóa - nghệ thuật là loại “hàng hóa đặc biệt”, đồng thời tìm ra các phương pháp mới để phát triển các hoạt động văn hóa - nghệ thuật trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước. Các lĩnh vực điện ảnh, sân khấu, xuất bản lúc này đã manh nha hướng CNVH, đòi hỏi có sự hạch toán sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Các hoạt động lấy thu bù chi và kinh doanh có lãi giai đoạn này nói lên sự đổi mới cung cầu trong lĩnh vực văn hóa. Thị trường văn hóa nghệ thuật từng bước hình thành và phát triển, tạo thành tiền đề cơ sở cho CNVH phát triển… Trong giai đoạn CNVH mới xuất hiện tại Việt Nam đã nảy sinh nhiều vấn đề về nhận thức lý luận đòi hỏi phải giải quyết như:

Xung đột giữa các giá trị văn hóa vốn mang tính trừu tượng, định tính với hiệu quả kinh tế thị trường vốn mang tính định lượng, cụ thể :

Xung đột giữa tính cấp bách của phát triển văn hóa với nhận thức lạc hậu của nhiều người, ngay cả với nhận thức của những người làm công tác quản lý về văn hóa và CNVH;

 Xung đột giữa khả năng tăng trưởng nhanh chóng của tiêu dùng văn hóa với phương thức sản xuất văn hóa lạc hậu, với cơ chế kinh doanh chưa linh hoạt, đồng bộ trong văn hóa;

Xung đột giữa nhu cầu bức thiết của CNVH và hệ thống chính sách chưa nhất quán đã tạo ra sự chia cắt giữa các ngành nghề, các khu vực văn hóa theo cách tự phát, mạnh ai người nấy làm;

Xung đột giữa nhu cầu lớn của nền CNVH với khả năng tiền vốn và nguồn vốn xã hội cung ứng chưa mạnh.

Thực tế trên đã ảnh hưởng lớn đến nhu cầu, khả năng sáng tạo, hưởng thụ các giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc Việt. Nó cũng làm hạn chế việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa dân tộc, gắn kết chặt chẽ, đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm hạn chế chủ trương tạo cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay, phát triển ngành CNVH trở thành một yêu cầu cấp thiết.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, nhận thức lý luận đối với văn hóa có những thay đổi đáng kể. Chúng ta chú ý việc phát huy những giá trị tinh thần cao đẹp, những giá trị văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng văn hóa thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Điều đó đòi hỏi các ngành nghề sản xuất sản phẩm văn hóa và cung cấp dịch vụ văn hóa phải chú trọng thích đáng đến việc hạch toán giá thành, nâng cao hiệu quả kinh tế. Trong môi trường kinh tế thị trường, tuyệt đại đa số các sản phẩm văn hóa đều trở thành hàng hóa, được bán rộng rãi, các khâu sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng văn hóa đều phải thích nghi với quá trình chu chuyển và quy tắc chung của kinh tế thị trường. Giữa văn hóa và kinh tế có sự kết hợp ngày càng chặt chẽ, sự tương hỗ, thẩm thấu giữa việc xây dựng văn hóa với xây dựng kinh tế đã thể hiện nổi bật đặc tính công nghiệp của văn hóa. Mục tiêu quan trọng của phát triển CNVH chính là việc đưa cơ chế công nghiệp vào xây dựng văn hóa, thực hiện sự phát triển ổn định lâu dài và khả năng tích lũy của văn hóa, hình thành cơ chế mở rộng tái sản xuất trong phát triển văn hóa. Đây là con đường mới mẻ của sự nghiệp xây dựng văn hóa, CNVH tại Việt Nam.

Những năm 90 thế kỷ XX, Nhà nước Việt Nam đã ban hành những quy định, quy chế về cải tiến quản lý sân khấu nhạc nhẹ, quản lý vũ hội, chính thức cho phép những hoạt động kinh doanh ngành vui chơi giải trí, văn hóa. Thị trường văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ XX phát triển cùng với ý thức xây dựng ngành CNVH từng bước được hình thành. Các ngành như: điện ảnh, xuất bản, sân khấu, biểu diễn nghệ thuật... dần dần bước vào thị trường, thực hiện xã hội hóa rộng rãi. Đó là bước tiến đáng chú ý, đáng khích lệ trên con đường xây dựng ngành CNVH ở nước ta.

Tuy nhiên, trong những chặng đường đầu tiên, hàng loạt vấn đề xung đột, mâu thuẫn cần giải quyết về nhận thức lý luận như đã trình bày ở phần trên cho thấy, thời điểm hiện nay cần có nhận thức mới, đúng đắn, nhất quán từ Trung ương tới địa phương, từ người quản lý tới người sản xuất và cả người tiêu dùng thụ hưởng văn hóa về tầm quan trọng của CNVH.

Sang đầu thế kỷ XXI, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân được nâng cao. Trước nhiều loại tư tưởng văn hóa tác động lẫn nhau trong phạm vi thế giới toàn cầu thì ý nghĩa của việc phát triển thật nhanh ngành CNVH Việt Nam ngày càng trở nên bức thiết. Xây dựng CNVH là tiền đề hết sức quan trọng để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhà nước coi việc xây dựng văn hóa phải đồng bộ, tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Vì thế, Việt Nam muốn hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước cần phải có sự tăng trưởng, hưng thịnh về kinh tế, đồng thời cũng phải có sự tăng trưởng, hưng thịnh về văn hóa. CNVH Việt Nam phải có phương thức sản xuất hiện đại để góp sức hữu hiệu vào công cuộc CNH, HĐH đất nước. Mục tiêu này càng cần đòi hỏi có sự hưng thịnh, đan xen và thẩm thấu trên cả hai phương diện kinh tế và văn hóa một cách biện chứng, khoa học.

Nền CNVH Việt Nam trong thế kỷ XXI cần được tiến hành xây dựng trong một phương thức mới, sử dụng điều kiện thuận lợi của cơ chế thị trường và kỹ thuật cao để tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của sự nghiệp văn hóa - nghệ thuật. Phát triển văn hóa, sáng tạo sản phẩm văn hóa cần có cơ chế công nghiệp thích ứng với sự phát triển của xã hội. Thông qua phát triển CNVH để không ngừng thỏa mãn nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa dạng của nhân dân. Việt Nam sẽ vận dụng cơ chế công nghiệp, thông qua thị trường để khai thác tài nguyên văn hóa, CNVH, mở rộng tái sản xuất, giải phóng và phát triển sức sản xuất văn hóa.

Việt Nam cần hướng tới mục tiêu sao cho phát triển CNVH trở thành nhu cầu khẩn thiết của phát triển kinh tế quốc dân và xã hội. Phát triển CNVH sẽ thúc đẩy việc xây dựng và kiện toàn thể chế văn hóa thích ứng với thể chế kinh tế thị trường. CNVH là một ngành công nghiệp có khả năng rõ rệt về mặt xúc tiến việc làm. Phát triển CNVH sẽ thúc đẩy việc nâng cao văn hóa quốc dân và thực hiện tiến bộ xã hội, tạo ra sự phát triển nhịp nhàng giữa kinh tế và văn hóa, hình thành môi trường văn hóa tốt đẹp.

Phát triển CNVH cũng là con đường để văn hóa Việt Nam tham gia cạnh tranh trên thị trường văn hóa quốc tế, tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước vào hội nhập kinh tế quốc tế. Văn hóa là một bộ phận hợp thành quan trọng cho sức mạnh tổng lực của đất nước, văn hóa ngày càng trở thành “quyền lực mềm” có vai trò không thể thay thế. Đến một ngưỡng nào đó, trình độ phát triển CNVH sẽ dần trở thành tiêu chí quan trọng để xác định trình độ phát triển văn hóa đất nước. Đó là lý do mà nhiều quốc gia chú trọng thúc đẩy chiến lược phát triển CNVH của nước mình. Trong bối cảnh cần giữ chủ quyền và tính độc lập của văn hóa, Việt Nam càng phải đẩy nhanh việc xây dựng CNVH, nâng cao sức cạnh tranh và tỷ lệ thị phần quốc nội trong thị trường hàng hóa văn hóa. Có như vậy mới chống lại được ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, nhất là sự xâm thực của nhiều hiện tượng phản văn hóa trong hành trình hội nhập toàn cầu. Hiện nay, một số nước phát triển lợi dụng ưu thế CNVH của nước mình thúc đẩy việc bá quyền văn hóa trong cạnh tranh thị trường văn hóa quốc tế. Nếu Việt Nam sử dụng và phát huy tối đa tài nguyên văn hóa độc đáo của mình, sớm xây dựng CNVH dân tộc, chiếm giữ được thị phần nhất định trong thị trường văn hóa quốc tế thì đó sẽ là hành động tích cực trong bảo vệ chủ quyền và an ninh văn hóa của quốc gia, tạo đà cho văn hóa dân tộc phát triển mạnh trên con đường hưng quốc.

Song, thực tế ở Việt Nam hiện nay, hệ thống sản xuất, phân phối các sản phẩm văn hóa chủ yếu vẫn do các doanh nghiệp của Nhà nước đảm nhiệm. Khu vực tư nhân và các tổ chức phi chính phủ đã xuất hiện và tham gia song còn ở mức độ hạn chế. Các doanh nghiệp văn hóa chủ yếu có quy mô nhỏ. Đầu tư ngân sách cho hoạt động văn hóa vẫn thấp so với các ngành khác. Kinh tế - xã hội của đất nước đang  chuyển đổi nhanh chóng nhưng các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực văn hóa nghệ thuật vẫn chuyển đổi chậm chạp và chưa hiệu quả.

Theo các tham luận tại Hội thảo Công nghiệp văn hóaở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp(2009), điện ảnh Việt Nam mỗi năm sản xuất khoảng 10 phim nhựa, nhưng chỉ có 1/10 số phim này được người xem tiếp nhận ngoài thị trường, thậm chí tỷ lệ này cũng không ổn định; cả nước có 129 đơn vị biểu diễn nghệ thuật; trong đó có 12 đơn vị trực tiếp do Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch quản lý, mỗi năm được Nhà nước đầu tư trung bình 100 tỷ đồng, nhưng trực tiếp vào vở diễn chỉ chừng 10 tỷ đồng, còn phần lớn dành cho bảo trì trụ sở làm việc, lương, chính sách..., mỗi đơn vị một năm chỉ dựng được nhiều nhất 2-3 vở, doanh thu bán vé của các đơn vị này dưới 30 tỷ đồng/năm, không bằng phần nhỏ doanh thu của một công ty tổ chức biểu diễn tư nhân. Cụ thể, Công ty Sơn Lâm (Hà Nội) đạt doanh thu tổ chức biểu diễn lên tới hơn 100 tỷ/năm.

Trước thực tế đó, Nhà nước Việt Nam đã sớm có những chính sách khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực văn hóa bằng việc ban hành các luật: Luật Xuất bản, ngày 7-7-1993 và Luật Xuất bản (sửa đổi) năm 2004; Luật Điện ảnh (có hiệu lực từ 1-1-2007), Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật Doanh nghiệp (2005); các nghị quyết về công tác xã hội hóa như Nghị quyết 90-CP ngày 21-8-1997, Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19-8-1999, Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18-4-2005 của Chính phủ về công tác xã hội hóa các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, Nghị quyết số 53/2006/NQ-CP ngày 25-05-2006 của Chính phủ về chính sách khuyến khích các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập... Đến nay, hầu hết các doanh nghiệp văn hóa chủ yếu vẫn hoạt động với quy mô nhỏ, chưa có sự bứt phá xứng tầm. Nhìn lại các lĩnh vực trong ngành CNVH (quảng cáo, kiến trúc, giải trí kỹ thuật số, mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, phim ảnh và video, in ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình và phần mềm vi tính), chúng ta thấy tuy các lĩnh vực hoạt động đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng nhưng quy mô ở tầm vĩ mô và hiệu quả thu được sau cùng vẫn là một bài toán khó cần tìm ra cách giải và có đáp số đúng.

Bức xúc cần có giải pháp về chính sách hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước, tạo hành lang pháp lý cho sự hình thành thị trường văn hóa lành mạnh tại Việt Nam đã lên tới cao trào. Phát triển CNVH phải thực sự dựa trên việc phát triển của thị trường văn hóa. Và hành lang pháp lý phải là điều kiện cần và đủ điều chỉnh các hoạt động của thị trường văn hóa. Việc này sẽ thúc đẩy, tạo đà cho công nghiệp văn hóa ở Việt Nam phát triển. Bên cạnh đó, cần khai thông mối quan hệ giữa các khái niệm tư tưởng và văn hóa. Văn hóa được coi là một lĩnh vực nhạy cảm gắn với tư tưởng cần được quản lý, quan tâm đặc biệt hơn những lĩnh vực kinh tế khác. Khai thông được quan hệ giữa tư tưởng và văn hóa sẽ góp phần tạo ra môi trường tốt cho văn hóa hoạt động hiệu quả, sáng tạo hơn.

Việc có một thị trường văn hóa tốt, nhiều tiềm năng, có hành lang pháp lý, hệ thống quản lý phù hợp, khoa học sẽ là một trong những giải pháp then chốt, làm nền tảng cho sự phát triển của công nghiệp văn hóa trong thế kỷ XXI.

Cũng như mọi quốc gia khác, CNVH Việt Nam chỉ có thể phát triển đủ tầm, đủ lực khi được Nhà nước quan tâm, có những biện pháp hiệu quả về thể chế, luật pháp, quản lý tổ chức nhằm hình thành và kích hoạt môi trường hoạt động văn hóa. Các lực lượng xã hội khác nhau, khi có đủ điều kiện thuận lợi sẽ tự nguyện tham gia hoạt động văn hóa, góp phần làm cho văn hóa thêm sinh động và việc quảng bá văn hóa dân tộc sẽ được phổ cập rộng rãi hơn.

Khi các hoạt động văn hóa Việt Nam mở ra thành hệ thống, bao quát được các lĩnh vực chuyên ngành liên quan trên phạm vi quốc gia hoặc quốc tế với đội ngũ nhân sự đầy đủ, chuyên nghiệp; có thiết chế hoạt động chặt chẽ, hiệu quả; có hệ thống hạ tầng kỹ thuật đủ sức đáp ứng nhu cầu hoạt động và có nền tài chính sinh lời vững chắc trên cơ sở mạng lưới thị trường rộng khắp; thì khi ấy sẽ hình thành nền CNVH Việt Nam vững vàng. Khi đó, trên phạm vi quốc gia, sự phát triển của nền CNVH có khả năng đóng góp to lớn cho các chỉ tiêu thu nhập quốc dân, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Đồng thời, nó gắn rất chặt với quy mô và chất lượng phát triển con người, phát triển xã hội. Về phương diện tương tác quốc tế, CNVH là động lực chính giới thiệu hình ảnh đất nước, tỏa rạng bản sắc văn hóa dân tộc, cùng với các nền văn hóa khác trên thế giới làm phong phú, đa dạng đời sống tinh thần của con người trong thời đại toàn cầu. CNVH tự nó sẽ sản xuất ra các sản phẩm văn hóa hoặc cung cấp các dịch vụ văn hóa với chất lượng ngày một cao hơn, hình thức ngày một đa dạng hơn theo nhu cầu của xã hội. Đồng thời, nó còn có khả năng hỗ trợ, cung ứng điều kiện cho các hoạt động văn hóa nằm ngoài dây chuyền hoạt động của nó thực hiện sản xuất hoặc áp dụng các dịch vụ đặc thù. Các sản phẩm văn hóa có giá trị khi được đưa ra thị trường tiêu dùng có đặc trưng là luôn mang theo và chuyển tải đến người tiếp nhận, thụ hưởng những ý tưởng về chân - thiện - mỹ, những giá trị được cộng đồng tôn vinh, có tác dụng thông tin, bổ sung nhận thức và giải trí. Nó còn đóng vai trò quảng bá bản sắc dân tộc và tập hợp cộng đồng. Trong thời đại toàn cầu hóa, hướng tới thế giới phẳng, CNVH càng đóng vai trò to lớn hơn trong việc bắc cầu và thúc đẩy yếu tố đa dạng văn hóa giữa các dân tộc.

CNVH là nguồn quan trọng tạo ra của cải vật chất và công ăn việc làm cho khối lượng lớn lao động có năng lực chuyên sâu. Nó còn là bàn đạp thúc đẩy sáng tạo, đổi mới sáng tác, cải tiến hợp lý hóa không ngừng công việc sản xuất và quảng bá sản phẩm nhằm liên tục lôi cuốn công chúng, phát triển sự nghiệp.

Quy mô và chất lượng của CNVH gắn liền với quy mô và chất lượng thị trường tiêu thụ sản phẩm văn hóa. Thị trường càng rộng lớn, tiêu thụ càng nhiều thì giá thành đơn vị sản phẩm càng được hạ thấp, nhờ đó khả năng tiêu dùng càng tăng, khả năng phát triển càng lớn. Đó là quy luật của phát triển xã hội.

Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, văn hóa hiện nay, việc giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, các quốc gia đặt ra vấn đề bình đẳng giữa các nền văn hóa. Nền CNVH của một đất nước không phát triển sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình hiện đại hóa nền văn hóa dân tộc, ảnh hưởng lớn tới chủ trương thực hiện CNH, HĐH đất nước và là biểu hiện của việc yếu thế, mất bình đẳng, không cạnh tranh được với các sản phẩm văn hóa, nền văn hóa của nước ngoài, không phát triển được kinh tế - xã hội. Nếu không chú trọng phát triển CNVH, Việt Nam cũng sẽ phải chịu thua thiệt nhiều về kinh tế, khi đó tính phụ thuộc gia tăng, nảy sinh những hệ luỵ khôn lường về văn hóa dưới góc độ xây dựng phát triển con người, cũng như việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hiện nay. Nền CNVH mỗi quốc gia có trình độ phát triển và hiệu quả hoạt động tốt là nhân tố bảo đảm sự bình đẳng giữa các nền văn hóa, đẩy lùi các dạng thức xâm lăng văn hóa đã và đang diễn ra trên toàn cầu. Nền CNVH Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật hoạt động đó. Vì thế, Việt Nam cần có sự ưu tiên đặc biệt cho phát triển văn hóa và CNVH. Hy vọng trong thế kỷ XXI, trí tuệ Việt Nam sẽ khai thông cho CNVH Việt Nam một cánh cửa xán lạn.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2016

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Lâm Tuấn Anh: “Phát triển CNVH ở Việt Nam, những giải pháp từ chính sách”, Hội thảo CNVH ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Hà Nội, tháng 9-2009.

2. Chiến lược phát triển Văn hóa đến năm 2020, (Ban hành kèm theo Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06-5-2009 của Thủ tướng Chính phủ).

3. Các Văn kiện Đại hội V, VI, VII, VIII, IX, X, XI của Đảng, các báo cáo của Bộ Văn hóa thông tin về tài chính, kế hoạch, chương trình quốc gia, xã hội hóa các hoạt động văn hóa thông tin.

4. Nguyễn Văn Dân: Diện mạo và triển vọng của xã hội tri thức, Nxb Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội, 2008.

5. Phạm Duy Đức: Những thách thức của văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2006.

6. Đỗ Đình Hãng (chủ biên): Tìm hiểu đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.

7. Nguyễn Thị Hương: “Phát triển ngành CNVH ở nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 10, 2008.

8. Nguyễn Thị Hương: “Chính sách kinh tế trong văn hóa và phát triển ngành CNVH Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính trị và truyền thông, số 5.

9. Nguyễn Danh Ngà: “Một vài nét về CNVH ở Việt Nam”, Hội thảo CNVH ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Hà Nội, tháng 9-2009

10. Phạm Xuân Nam: Văn hóa vì phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

11. Tô Huy Rứa: “Xây dựng và phát triển ngành CNVH ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản, số 1, tháng 1-2006.

12. http://portal.unesco.org:UNESCO: Các ngành CNVH - Tâm điểm của văn hóa trong tương lai.

 

TS Nguyễn Thị Quế Anh

Học viện Chính trị Khu vực I

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền