Trang chủ    Thực tiễn    Một số giải pháp thực hiện phát triển kinh tế biển và gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam hiện nay
Thứ năm, 09 Tháng 3 2017 11:12
2424 Lượt xem

Một số giải pháp thực hiện phát triển kinh tế biển và gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam hiện nay

(LLCT) - Việt Nam là quốc gia biển, có tiềm năng lớn để xây dựng và phát triển kinh tế biển. Từ xa xưa, biển đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Các hải đảo và quần đảo cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển bao đời nay của dân tộc, cuộc sống của bao thế hệ người Việt đã gắn với biển.

1.Tiềm năng phát triển kinh tế và vị trí chiến lược an ninh - quốc phòng của biển

Việt Nam có chiều dài bờ biển trên 3.260 km, với 28 tỉnh, thành phố giáp biển.Biển Đông có vị trí địa - chiến lược về an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế, là vùng biển có giao thông nhộn nhịp, có nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có, phong phú và trữ lượng lớn, nguồn lợi thủy sản, tiềm năng du lịch dồi dào, tiềm năng phát triển ngành hàng hải. Hệ thống cảng biển được gắn kết với các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối vào sâu trong nội địa (các tuyến đường xuyên Á).

Việt thuộc bán đảo Đông Dương, lãnh thổ đất liền trải dài hình chữ S, biển cả ôm trọn đất nước, biển như mặt tiền, sân trước. Lịch sử dân tộc đã ghi nhận có tới 2/3 cuộc chiến tranh xâm lược, kẻ thù đã  đường biển để tấn công và cũng ghi nhận những chiến công hiển hách trên sông biển của dân tộc ta: Ba lần đại thắng trên sông Bạch Đằng (năm 938, 981 và 1288),...

Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, biển đảo Việt Nam có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, do chiều ngang lãnh thổ hẹp (nơi rộng nhất khoảng 600 km, nơi hẹp nhất khoảng 50 km), hầu hết các trung tâm chính trị, kinh tế xã hội của ta đều nằm trong phạm vi cách bờ biển không lớn, nên rất dễ bị địch tấn công từ hướng biển xây dựng nền quốc phòng biển đảo làm tăng chiều sâu phòng thủ đất nước.

Nếu chiến tranh xảy ra thì mọi mục tiêu trên đất liền đều nằm trong tầm hoạt động, bắn phá của vũ khí trang bị công nghệ cao xuất phát từ hướng biển. Nếu các quần đảo xa bờ, gần bờ được củng cố xây dựng căn cứ, vị trí đồn trú, neo đậu, triển khai của lực lượng Hải quân Việt Nam và sự tham gia của các lực lượng khác thì biển đảo có vai trò quan trọng làm tăng chiều sâu phòng thủ hiệu quả cho đất nước.

Hiện nay, tình hình tranh chấp biển đảo trên Biển Đông diễn biến phức tạp, đẩy tới xu hướng tăng cường tiềm lực quân sự trong khu vực, gây ra những nhân tố khó lường về chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.

2. Quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ chủ quyền biển đảo

Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta nhận thức sâu sắc và thể hiện rõ quan điểm về phát triển kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Quan điểm đó được thể hiện tập trung tại Nghị quyết 03/-NQ/TW ngày 6-5-1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) về “Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt”, Chỉ thị 20-CT/TW ngày 22-9-1997 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; đặc biệt là “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” được Hội nghị Trung ương 4 khoá X thông qua, trong đó xác định rõ mục tiêu: “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển”(1). Vươn ra biển, làm giàu từ biển, tăng cường khả năng quản lý, làm chủ chủ quyền quốc gia trên biển là định hướng đúng đắn phù hợp với điều kiện quốc gia biển, tạo động lực thúc đẩy các vùng khác trong đất liền phát triển.

Đại hội X nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế biển vừa toàn diện, vừa trọng tâm, trọng điểm...”(2). Đại hội XI định hướng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2020: “Khai thác bền vững, có hiệu quả nguồn lợi thủy sản, phát triển đánh bắt xa bờ, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh”(3). Tập trung khai thác tiềm năng và lợi thế của biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh trên biển để tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và ngư dân các địa phương yên tâm làm ăn trên các vùng biển đảo, nhất là ở vùng biển xa.

Trong bối cảnh mới, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Phát triển mạnh kinh tế biển, nhằm tăng cường tiềm lực kinh tếquốc gia và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp dầu khí, đánh bắt xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng hải (kinh doanh dịch vụ cảng biển, đóng và sửa chữa tàu, vận tải biển), du lịch biển, đảo. Có cơ chế tạo bước đột phá về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển…”(4). Đó là nguyện vọng, là ý chí , quyết tâm của nhân dân Việt Namvới phát triển kinh tế biển gắn với giữ vững biển, đảo của Tổ quốc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, hơn lúc nào hết phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước

Thực hiện các quan điểm, chủ trương trên trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trên biển Đông diễn biến phức tạp khiến nhiệm vụ bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển có nhiều khó khăn, thách thức, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ chiến lược và xử lý kịp thời các vấn đề nảy sinh. Trong thời gian tới, để thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng tại Đại hội XII cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo 

Công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo cần bám sát tình hình, đa dạng hóa hình thức, phương pháp cho phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng, đồng thời tận dụng có hiệu quả các phương tiện kỹ thuật và chú trọng mở rộng phạm vi tuyên truyền.

Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên biển đòi hỏi có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và các địa phương; phải có sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương tới cơ sở về nội dung và phương pháp tuyên truyền. Nội dung tuyên truyền phải đa dạng và phong phú trên các phương tiện thông tin đại chúng trong nước và quốc tế, lồng ghép chặt chẽ giữa các hoạt động đối ngoại, chính trị, kinh tế, quân sự, quốc phòng… Nhằm mục tiêu qua đó, nhân dân Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế hiểu và nắm vững các vùng, khu vực thuộc chủ quyền lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như chủ quyền biển Việt Nam được xác lập trên cơ sở các điều khoản quy định trong Công ước quốc tế về Luật Biển 1982.

Tuyên truyền về các điều khoản và nghĩa vụ cần phải chấp hành các quy định của luật pháp Việt Nam khi hoạt động hoặc tham gia giao thông trong phạm vi lãnh hải, các vùng nội thuỷ, vùng đảo, quần đảo và khu vực đặc quyền kinh tế trên biển Việt Nam.

Tuyên truyền các quan điểm chủ đạo và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thực thi quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo, quần đảo và các khu vực đặc quyền kinh tế biển.

Đặc biệt, chú trọng nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, nhất là các cấp, ngành ở địa phương ven biển, nhận thức rõ tính chất phức tạp của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế; khẳng định, củng cố niềm tin cho nhân dân cả nước, cộng đồng quốc tế về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; làm chuyển biến ý thức, trách nhiệm của mỗi người… Qua đó phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh trong và ngoài nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.  

Công tác tuyên truyền phải được tiến hành sâu rộng trong và ngoài nước, phải gắn kết giữa lịch sử với hiện tại để người dân thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; làm cho mỗi công dân Việt Nam thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với chủ quyền biển, đảo quốc gia. Từ đó đoàn kết, chung sức đồng lòng quyết tâm làm chủ, bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Hai là, tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế biển, đảo và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên các vùng ven biển, hải đảo

Nhà nước cần tập trung đầu tư nguồn lực lớn cho các ngành kinh tế mũi nhọn, có thế mạnh ở các vùng ven biển, trên các đảo và quần đảo như: Khai thác, chế biến dầu khí; hệ thống cảng và dịch vụ vận tải biển; khai thác, chế biến hải sản, du lịch... Trong đó, ưu tiên xây dựng các trung tâm dịch vụ, thành lập các đơn vị kinh tế mạnh có đủ khả năng vươn xa, kết hợp phát triển kinh tế với làm chủ biển, đảo; tập trung nguồn vốn, khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực để khai thác có hiệu quả các tiềm năng của biển; ưu tiên phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh trên khu vực quần đảo Trường Sa và các đảo lớn xa bờ, tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tốc độ sản xuất của nhân dân đang sinh sống trên các đảo và quần đảo.  

Các ngành chức năng và địa phương cần phối hợp nghiên cứu, khảo sát tổng thể, xác định rõ tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, từng khu vực, đánh giá đúng, đủ các yếu tố tự nhiên cũng như xu thế phát triển. Việc quy hoạch phải tính đến sự kế thừa, phát triển, tính liên kết giữa các vùng và các khu vực; phải gắn bờ, biển, đảo và quần đảo trong một không gian sinh tồn về kinh tế và quốc phòng. Vì vậy, nếu không khảo sát đầy đủ, đánh giá một cách khoa học thì kết quả sẽ thấp, thậm chí không mang lại hiệu quả mà còn phá vỡ tính cân bằng trong quá trình phát triển kinh tế biển. 

Phát triển kinh tế biển phải gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đây là một vấn đề then chốt trong xây dựng thế trận lòng dân trên biển. Lịch sử đã chứng minh, ở bất cứ thời đại, chế độ nào, nguyện vọng sâu xa của nhân dân vẫn là đời sống vật chất và tinh thần được bảo đảm, “khoan thư sức dân” - cách thức tốt nhất để quy tụ lòng dân, làm cơ sở, nền tảng để xây dựng thế trận lòng dân.  Thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với các huyện đảo xa bờ và các địa bàn trọng điểm, chiến lược.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa quá trình dân sự hóa trên biển để phát triển kinh tế biển với xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền lãnh hải trên biển   

Dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở để chúng ta khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên trên biển, vừa là tiền đề để xây dựng, củng cố và phát huy lực lượng tại chỗ phục vụ chiến lược quốc phòng - an ninh trên biển. Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 nêu: “Thực hiện quá trình dân sự hóa trên biển, đảo gắn với tổ chức dân cư, tổ chức sản xuất và khai thác biển. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra định cư ổn định và làm ăn dài ngày trên biển; thí điểm xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế tại các đảo, quần đảo Trường Sa, vùng biển, đảo của Tổ quốc”(5). Đây là chủ trương chiến lược có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Chủ trương này đã và đang được hiện thực hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển đi đôi với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền của Việt Nam trên biển. Ở một số đảo có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh, quốc phòng quá trình dân sự hoá bước đầu được thực hiện có hiệu quả, tạo được dư luận tốt đối với quần chúng nhân dân trong và ngoài nước. Hạ tầng trên nhiều đảo ở Trường Sa được xây dựng ngày càng khang trang. Đời sống của nhân dân từng bước đi vào ổn định.  

Việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và duy trì lợi ích quốc gia trên biển cần kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các khu vực ven biển, trên biển và đảo phải tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong kế hoạch tổng thể của khu vực phòng thủ địa phương, phải mang tính hệ thống, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ giữa biển, đảo với đất liền; kết hợp chặt chẽ giữa thế trận “tĩnh” của đảo và bờ với thế “động” của lực lượng tác chiến cơ động trên biển tạo nên thế trận liên hoàn, vững chắc. 

Trang bị kỹ thuật phục vụ cho mục đích kinh tế-xã hội phải phù hợp với hệ thống trang bị kỹ thuật quốc phòng - an ninh trong hệ thống các cụm lực lượng trên biển, thực hiện kiểm soát, giám sát, báo động, chi viện, hỗ trợ nhau trong đấu tranh phòng chống các hoạt động xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia. Các cơ sở hậu cần, kỹ thuật kinh tế - xã hội ven bờ, trên biển và trên các đảo phải sẵn sàng huy động cho nhiệm vụ quốc phòng, ưu tiên xây dựng các đảo tiền tiêu xa bờ có công sự kiên cố, trang bị hoả lực mạnh, có khả năng tác chiến dài ngày. Quá trình thiết kế, xây dựng hạ tầng trên biển, đảo phải mang tính lưỡng dụng cao, không chỉ bền vững trước tác động của môi trường biển mà còn phải bền vững khi chuyển sang phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh.

Trong tình hình hiện nay, cần xây dựng một lực lượng kiểm ngư đủ mạnh để bảo vệ việc khai thác, đánh bắt hải sản của ngư dân trên biển, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn trên biển; đồng thời kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn các hành động khai thác hải sản trái phép của nước ngoài trên vùng biển của Việt Nam. Các địa phương ven biển, huyện đảo phải có lực lượng dân quân tự vệ vừa tham gia sản xuất, khai thác hải sản, vừa làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trên biển, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành động xâm phạm lợi ích, chủ quyền quốc gia.  

Bốn là, xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở các huyện đảo đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

Hệ thống chính trị ở các huyện đảo, nhất là những huyện đảo xa bờ là chủ thể trực tiếp tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các chủ trương của Đảng trên các địa bàn biển, đảo. Vì vậy, xây dựng hệ thống chính trị ở các huyện đảo vững mạnh là một giải pháp quan trọng để củng cố thế trận quốc phòng toàn dân trên biển đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Phải hoàn thiện hệ thống chính trị với các thiết chế đầy đủ, cơ cấu hợp lý và cơ chế hoạt động hiệu quả, phù hợp với điều kiện hoạt động đặc thù trên các địa bàn biển, đảo. Chú trọng nâng cao vai trò và chức năng hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là tổ chức đảng.

Coi trọng giải quyết tốt mối quan hệ và sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở mỗi huyện đảo và giữa các huyện đảo với nhau, tạo ra thế trận liên hoàn trên biển để có thể nhanh chóng tập hợp và sử dụng hiệu quả sức mạnh của các lực lượng tại chỗ phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội và quốc phòng, an ninh trên biển.   

Biển, đảo Việt Nam có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là truyền thống lịch sử dân tộc, đó cũng là thể hiện trách nhiệm thiêng liêng của mỗi công dân Việt Nam đối với dân tộc. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn vùng biển nói riêng và toàn vẹn chủ quyền quốc gia, giữ vững hào bình ổn định là nhiệm vụ trọng yếu và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là nhân tố quan trọng bảo đảm cho dân tộc ta phát triển bền vững, xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

_________________                                                         

(1), (5) Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.

(2) ĐCSVN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.225

(3) ĐCSVN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.67

(4) ĐCSVN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016, tr. 94,95.

 ThS Lê Quốc Bang

                                      Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

 

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền