Trang chủ    Thực tiễn    Xây dựng nguồn nhân lực Ngành Y tế - Kết quả và một số giải pháp
Thứ năm, 11 Tháng 5 2017 12:27
4017 Lượt xem

Xây dựng nguồn nhân lực Ngành Y tế - Kết quả và một số giải pháp

(LLCT) - Lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước, Đảng ta và Nhà nước luôn quan tâm công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đảng, Nhà nước, đã quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ y tế và đạt nhiều kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ ngành y tế đã trưởng thành toàn diện, phát huy truyền thống, nâng cao y đức, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Lao động nghề y là loại lao động đặc biệt, lao động cao quý, vinh quang, có vai trò đặc biệt quan trọng trong xã hội, liên quan trực tiếp đến tính mạng con người, do vậy phải được đào tạo theo chương trình nghiêm ngặt với thời gian dài hơn các ngành khác. Đồng thời, lại là lao động cực nhọc, căng thẳng, độc hại do luôn tiếp xúc với đau đớn của bệnh nhân, trong môi trường dễ lây nhiễm bệnh tật, có thể phải tiếp xúc với hoá chất, chất thải môi trường bệnh viện nhưng cũng chịu sức ép từ dư luận xã khi có những biến cố trong chuyên môn xảy ra. Vì thế, đòi hỏi người cán bộ y tế luôn phải có ý thức rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực làm việc và có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm cao.

Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 46-NQ/TW 23-2-2005“Về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”, khẳng định “Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước”(1).

Để thực hiện tốt công tác y tế, yêu cầu phải xây dựng hệ thống mạng lưới y tế với nguồn nhân lực y tế,chủ trương: “Sắp xếp lại mạng lưới, mở rộng và nâng cấp các cơ sở đào tạo, đáp ứng nhu cầu về cán bộ y tế phù hợp với quy hoạch phát triển ngành; xây dựng một số trung tâm đào tạo cán bộ y tế ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực. Tăng cường đào tạo cán bộ y tế theo hình thức cử tuyển cho miền núi và đồng bằng sông Cửu Long”(2).

Trong đào tạo, bồi dưỡng, chú trọng phát triển số lượng đi liền với nâng cao chất lượng chuyên môn, y đức nhằm hướng tới sự hài lòng của người bệnh, đáp ứng sự kỳ vọng của xã hội: “Tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế cả về số lượng và chất lượng. Nâng cao trình độ chuyên môn, trách nhiệm và y đức của đội ngũ cán bộ y tế”(3).

Công tácsắp xếp và bố trí cán bộ được chú trọng để đội ngũ cán bộ trong ngành hỗ trợ, bổ khuyết nhau, hạn chế tình trạng thiếu hụt hay dư thừa cán bộ ở các vùng miền, ở tuyến cơ sở, ở các chuyên khoa khó tuyển dụng. “Thực hiện việc luân chuyển cán bộ; khuyến khích thầy thuốc về công tác ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn”(4). Cùng với đó là quan tâm “Hoàn chỉnh quy hoạch, củng cố và nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, có bác sĩ làm việc ở tất cả các trạm y tế xã đồng bằng và trung du, phần lớn xã miền núi. Nâng cấp bệnh viện huyện, tỉnh; phát triển các bệnh viện đa khoa khu vực ở địa bàn xa trung tâm tỉnh”(5). Trong chính sách đối với cán bộ y tế “Coi trọng việc đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài về y tế. Mở rộng việc đưa cán bộ có trình độ cao đi đào tạo ở nước ngoài bằng nguồn kinh phí nhà nước, khuyến khích du học tự túc theo các chuyên ngành đang có nhu cầu”(6).

Một trong những giải pháp xây dựng nguồn nhân lực y tế là chính sách đãi ngộ phù hợp với những cống hiến, “có chính sách đãi ngộ để sử dụng tốt cán bộ y tế, nhất là vùng khó khăn”(7) gắn với  việc “cải thiện chính sách và chế độ thù lao đối với cán bộ y tế, nhất là cán bộ y tế cơ sở và ở miền núi”(8).

Tại Đại hội X (2006), lần đầu tiên Đảng ta đã đưa ra một quan niệm mới về chế độ viện phí, tạo cơ sở quan trọng để ngành y tế vừa có điều kiện để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh vừa đảm bảo nguồn chi của các bệnh viện, đáp ứng một phần để tái đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, cải thiện đời sống cho cán bộ y tế: “Đổi mới cơ chế tài chính, điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo lộ trình, tính đúng, tính đủ và đảm bảo công khai, minh bạch”(9).

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 46/NQ-TW của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ban hành nhiều chương trình, nghị quyết về phát triển ngành y tế, trong đó chú trọng xây dựng nguồn nhân lực: Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30-6-2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống Y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; Quyết định số 122/QĐ - TTg ngày 10-1-2013 về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm  nhìn đến năm 2030. Trong các chiến lược, quy hoạch xây dựng, phát triển ngành y tế Việt Nam đã dành ưu tiên đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ y tế, xác định đây là một trong những nhiệm vụ then chốt để phát triển ngành y tế.

2. Một số kết quả chủ yếu

Về đào tạo, bồi dưỡng, chuyển giao kỹ thuật

Mạng lưới các cơ sở đào tạo cán bộ y tế đã được mở rộng đáng kể trong thời gian qua. Tính đến tháng 6-2014, cả nước đã có 173 cơ sở đào tạo cán bộ y tế ở tất cả các trình độ. Trong đó, có 35 cơ sở đào tạo trình độ đại học, 44 cơ sở đào tạo trình độ cao đẳng và 123 cơ sở đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp. Hệ thống các cơ sở đào tạo cán bộ y tế đã được sắp xếp lại, mở rộng về quy mô trên cả nước với nhiều hình thức đào tạo nhằmkhắc phục tình trạng thiếu hụt cán bộ y tế, nhất là vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Hệ thống các trường này tạo ra nguồn bổ sung cho đội ngũ nhân lực y tế dồi dào. Số lượng sinh viên đại học ra trường tăng nhanh, năm 2014 có trên 7 nghìn bác sĩ ra trường, tăng hơn một nghìn so với năm 2013.

Nguồn nhân lực điều dưỡng được đào tạo bao gồm các bậc đại học, cao đẳng, trung cấp với quy mô lớn. Với chỉ tiêu tuyển sinh cao đẳng, trung cấp điều dưỡng từ khoảng trên 11 nghìn người năm 2006 và tăng dần đến trên 35 nghìn người năm 2014(10). Đào tạo sau đại học (bác sĩ chuyên khoa I, II, nội trú, thạc sĩ và tiến sĩ) ngành y tế được tăng cường ở tất cả các loại hình, số lượng học viên sau đại học tốt nghiệp năm 2010 là 3.378 người, đến năm 2013 đã tăng lên 4.680 người(11).

Thực hiện Đề án 1816 về luân chuyển cán bộ y tế,từ năm 2008 đến năm 2014 đã có 15 nghìn lượt cán bộ của các bệnh viện thuộc Bộ Y tế đi luân phiên chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ tuyến dưới; 1.905 lượt cán bộ thuộc bệnh viện tỉnh được cử luân phiên hỗ trợ bệnh viện huyện và 3.234 lượt cán bộ thuộc bệnh viện huyện cử xuống hỗ trợ 1.815 trạm y tế xã thực hiện khám chữa bệnh qua đó nhằm chuyển giao kỹ thuật y học tiên tiến, từng bước đào tạo cán bộ có nghiệp vụ tại cơ sở(12).

Về số lượng và trình độ nhân lực y tế

Đội ngũ cán bộ y tế đã có những bước phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Tổng số cán bộ y tế trong toàn ngành năm 2009 là 364.876(13) trong đó, có 19.083 dược sĩ; 56.661 bác sĩ; 1.510 cán bộ y tế công cộng; 55.999 y sĩ.

Đến năm 2014, tổng số cán bộ trong toàn ngành y tế tăng lên 430.496 người, trong đó có 70.362 bác sĩ (kể cả tiến sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ); 21.843 dược sĩ (kể cả tiến sĩ, phó tiến sĩ); 1.733 cán bộ y tế công cộng (bao gồm tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân y tế công cộng); 59.060 y sĩ, 9.426 điều dưỡng đại học, 17.052 kỹ thuật viên y, 44.867 dược sĩ trung học và kỹ thuật viên dược, 83.797 điều dưỡng cao đẳng và trung học(14),v.v..

Số bác sĩ trên 1 vạn dân tăng: năm 2010 là 7,2 đến năm 2014 đạt 7,8 (năm 2015 đạt 8 bác sĩ/vạn dân.

Về phân bố,thực hiện Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân vàQuy hoạch tổng thể hệ thống y tế Việt Nam, với mục tiêu đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế xây dựng các tuyến hợp lý, y tế tuyến huyện có sự cải thiện về nhân lực. Tổng số bác sĩ tuyến huyện tăng từ 15.521 người (năm 2010) lên 18.870 người (năm 2014), tổng số dược sĩ đại học ở các bệnh viện huyện tăng từ 698 người (năm 2010) lên 1.699 người năm 2014(15).

Tại tuyến xã, năm 2013 có 76,9% trạm y tế xã có bác sĩ làm việc (bao gồm cả các trạm y tế xã có bác sĩ làm việc từ 3 ngày/tuần trở lên). Ở các huyện miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, nhất là ở một số huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa tỷ lệ này thấp hơn(16).

Bên cạnh đó, các kỹ thuật chuyên sâu, kỹ thuật cao cũng được khuyến khích triển khai để khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh và đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa trong ngành y tế.

Một số chuyên khoa và tuyến y tế cơ sở khó tuyển dụng về nhân lực y tế cũng đã được Nhà nước và ngành y tế tìm ra những giải pháp nhằm tháo gỡ. Một số chính sách, dự án đã được ban hành và triển khai như: Quyết định số 319/QĐ-TTg (2013) của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án khuyến khích đào tạo và phát triển nhân lực y tế các chuyên ngành Lao, Phong, Tâm thần, Pháp y, Giải phẫu bệnh giai đoạn 2013-2020; Dự án thí điểm đưa bác sĩ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (ưu tiên 62 huyện nghèo) theo Quyết định số 585/QĐ-BYT đã được triển khai và đến năm 2016 có khoảng 500 bác sĩ trẻ về công tác tại các vùng này.

3. Một số bất cập, hạn chế

Công tác đào tạo cán bộ y tế chủ yếu vẫn dựa trên năng lực và công tác bảo đảm chất lượng của các trường y dược. Chương trình đào tạo chưa được thực hiện hiệu quả do còn hạn chế trong việc hướng dẫn, theo dõi, giám sát và đánh giá chặt chẽ; chương trình đào tạo chưa hội nhập với thế giới cả về cách tiệp cận, phương pháp và nội dung đào tạo.

Kết quả giám sát tại 44 trường cao đẳng y tế cho thấy, nhiều trường đào tạo quy mô lớn (có 5 trường trên 2 nghìn sinh viên) nhưng nhân lực giảng viên trình độ sau đại học còn ít (42% số trường còn dưới 20% giảng viên trình độ đại học). Kết quả giám sát tại 10 trường đại học về đào tạo theo chế độ cử tuyển, liên thông và theo địa chỉ sử dụng cho thấy số lượng cử tuyển, liên thông y đa khoa và liên thông ngành dược lớn(17).

Hiện nay, Bộ Y tế vẫn chưa có chương trình thực tập chuẩn 18 tháng tại các bệnh viện cho các bác sĩ sau khi tốt nghiệp đại học y để đủ điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề theo qui định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Chính vì vậy, chưa tạo được sự kết nối giữa các hoạt động đào tạo liên tục với việc cấp chứng chỉ hành nghề.

Chất lượng nhân lực y tế, đặc biệt là ở tuyến xã trong sơ cấp cứu, chẩn đoán và điều trị một số bệnh, cũng như kiến thức về xử lý bệnh dịch còn hạn chế. Theo một nghiên cứu ở khu vực miền núi, chỉ có 17,3% số bác sĩ và y sĩ được hỏi có kiến thức và kỹ năng đúng trong xử trí sơ cấp cứu, 17% biết được các dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ phụ nữ mang thai, 50,5% biết cách chẩn đoán tăng huyết áp và 15,6% biết cách xử trí một vụ dịch...)(18).

Phân bổ nhân lực y tế còn nhều bất cập. Mặc dù đã có những biến chuyển trong tuyển dụng, phân bổ nhân lực nhưng vẫn còn nhiều bất cập; chênh lệch về số lượng và chất lượng nhân lực y tế giữa khu vực điều trị và dự phòng, giữa các chuyên ngành, giữa trung ương và địa phương.

Phân bố nhân lực y tế chưa hợp lý giữa các khu vực địa lý, giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt khu vực miền núi.Hiện nay, cán bộ y tế có trình độ đại học trở lên tập trung chủ yếu ở các thành phố và khu vực kinh tế phát triển. Hiện có tới 45% nhân lực y tế có trình độ đại học trở lên ở tuyến trung ương, trong khi ở địa phương chỉ là 23%.

Tại địa phương, 50% bác sĩ và 69% dược sĩ đại học làm việc ở tuyến tỉnh, 34% bác sĩ và 31% dược sĩ đại học làm việc ở tuyến huyện, 17% bác sĩ và 1% dược sĩ đại học làm việc ở tuyến xã.

Số lượng dược sĩ đại học ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 48% tổng số dược sĩ của cả nước; chủ yếu (92%) số dược sĩ này làm việc trong khu vực tư nhân, chiếm hơn một nửa số dược sĩ thuộc khối tư nhân của cả nước19. Tại các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, số lượng dược sĩ đại học chỉ chiếm tỷ lệ 19,6% nhân lực dược chung(19).

Tỷ số bác sĩ trên một vạn dân trên cả nước tăng đều và ở một số địa phương khá cao, nhưng ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, tỷ lệ này vẫn còn thấp(20).

Phân bố bất hợp lý giữa các khoa ngay trong một bệnh viện, một số khoa thiếu bác sĩ như khoa truyền nhiễm, khoa lây, khoa tâm thần.

Hiện vẫn còn khoảng 50% cô đỡ thôn bản chưa được đưa vào làm việc trong hệ thống y tế và có phụ cấp hàng tháng. Việc đánh giá kết quả công việc của nhân viên y tế chưa được sử dụng như một công cụ quản lý nhân lực hữu hiệu, làm cơ sở cho việc khen thưởng hay xử phạt, do đó chưa tạo ra động lực của cán bộ y tế(21).

Công tác quy hoạch, kế hoạch và quản lý nhân lực tại các tuyến còn hạn chế. Công tác theo dõi, quản lý nhân lực chưa được chuẩn hóa. Thiếu thông tin đầy đủ, chính xác, cụ thể về nhân lực y tế. 

Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ y tế chưa phù hợp, lương và phụ cấp thấp, không tương xứng với thời gian học tập, công sức, môi trường, điều kiện làm việc vất vả, độc hại, nguy hiểm, nhất là ở khu vực miền núi, nông thôn. Cùng với hạn chế trong năng lực phục vụ là các hiện tượng tiêu cực trong ngành y tế ở một số nơi đang đang là mối quan tâm, bức xúc của xã hội.  

4. Một số giải pháp

Từ thực tế cho thấy, để làm tốt công tác này, thực hiện thành công Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, góp phần quyết định xây dựng và đổi mới ngành y tế, đáp ứng yêu cầu xã hội, cần tập trung thực hiện một số nội dung sau:

Một là, tăng cường lãnh đạo công tác xây dựng nguồn nhân lực y tế

Trong thời gian tới, các cấp ủy Đảng tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm trong xây dựng đội ngũ cán bộ y tế, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương về công tác cán bộ của Đảng trong thời kỳ mới; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ các chủ trương, biện pháp công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ y tế đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Để xây dựng nguồn nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu xã hội, cần thiết phải xây dựng một nghị quyết chuyên đề của Đảng về đội ngũ cán bộ y tế. Bởi đến nay chưa có nghị quyết chuyên đề về xây dựng đội ngũ này mà lồng ghép trong Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ Chính trị hoặc các nghị quyết Đại hội Đảng hoặc Nghị quyết về xây dựng đội ngũ trí thức,…

Hai là, chính quyền và ngành y tế phát huy vai trò quản lý và tham mưu cho Đảng trong công tác cán bộ

Tiếp tục gắn công tác xây dựng nguồn nhân lực y tế với các chương trình, mục tiêu quốc gia trong lĩnh vực y tế. Chính phủ cần ban hành các chế độ, chính sách về tiền lương, phụ cấp cho cán bộ y tế phù hợp với lĩnh vực công tác đặc thù này, như Nghị quyết 46-NQ/TW đã khẳng định. 

Ngành y tế cần nghiên cứu, dự báo về nhu cầu cán bộ y tế tại các địa phương, lĩnh vực để từ đó tham mưu cho Đảng và Nhà nước ban hành nghị quyết, chương trình cụ thể, phù hợp cả mục tiêu ngắn hạn và dài hạn.

Ba là, thực hiện đồng bộ các giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, bố trí cán bộ y tế

Trong thời gian tới, các trường y dược cần tiếp tục nghiên cứu và đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao cả về số lượng và chất lượng nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của nhân dân.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần xây dựng cơ chế chính sách đặc thù trong tuyển dụng, bố trí cán bộ y tế, nhất là ở cơ sở, ở lĩnh vực khó tuyển. Đồng thời, có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ phù hợp cho cán bộ đi học tập dài hạn, các lớp bồi dưỡng ngắn hạn để nâng cao trình độ chuyên môn.

Tiếp tục tăng cường hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật để qua đó xây dựng đội ngũ cán bộ y tế tuyến dưới có đủ khả năng đảm đương những kỹ thuật phức tạp, góp phần giảm tải cho các cơ sở y tế tuyến trên.

__________________

(1), (2), (4), (6). Bộ Chính trị: Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23-5-2005“Về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”.

(3). ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.302.

(5), (7), (8). ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VI, VIII, IX, X, X), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.535, 361,418.

(9). ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.302.

(10), (12), (16), (17), (18), (19), (20), (21). Bộ Y tế: Báo cáo tổng quan ngành y tế năm 2015, Nxb Y học, Hà Nội, 2016, tr. 33, 39, 37, 41,37,40

(11), (19). Bộ Y tế: Báo cáo tổng quan ngành y tế năm 2014, Nxb Y học, Hà Nội, 2015,  tr.71, 72.

(13). Bộ Y tế: Tóm tắt số liệu thống kê y tế 2009 - 2013, Nxb Y học, Hà Nội, 2014, tr.8

(14), (15). Bộ Y tế: Niên giám thống kê y tế năm 2014, Nxb Y học, Hà Nội, 2015, tr.54, 56

 

ThS Đỗ Thị Nhường

Trường Đại học Y- Dược Thái Nguyên

 

 

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền