Trang chủ    Thực tiễn    Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập Thành phố Hà Nội hiện nay
Thứ năm, 27 Tháng 12 2018 10:30
4044 Lượt xem

Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập Thành phố Hà Nội hiện nay

(LLCT) - Nâng cao chất lượng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) của nước ta nói chung và Thành phố Hà Nội nói riêng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là chính quyền và nhân dân thủ đô Hà Nội để Hà Nội xứng đáng với tầm vóc trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa -  khoa học kỹ thuật của cả nước. Trên tinh thần đó, bài viết xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập Thành phố Hà Nội hiện nay.

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các ĐVSNCL về việc nâng cao chất lượng hoạt động của đơn vị theo các tiêu chí cụ thể.

- Cấp ủy, chi bộ đảng và người quản lý đơn vị phải xây dựng quan điểm, chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế hoạch tổng thể trong việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người lao động về nâng cao chất lượng hoạt động trên cương vị chức trách được giao (xây dựng nếp sống văn hóa trong công sở, trong đơn vị sản xuất, dịch vụ; ban hành hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá cán bộ công chức, viên chức phục vụ khách hàng, qua đó kiểm tra, giám sát việc thực hiện…).

- Cơ quan quản lý, người quản lý phải tổ chức hệ thống theo dõi, giám sát mọi hoạt động của người lao động dưới quyền theo chức trách nhiệm vụ, tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá và cam kết thực hiện. Tốt nhất nên thực hiện giám sát bằng công nghệ đối với mọi vị trí việc làm trong công sở, vị trí công tác của người lao động để có những đánh giá khách quan.

- Người lao động, những người luôn làm việc tốt theo chức trách nhiệm vụ được giao, làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao thì cần được động viên, khuyến khích để hình thành thói quen làm việc có ý thức, trách nhiệm cao hơn. Với những người chưa có ý thức trách nhiệm tốt, một mặt kiên trì giáo dục nâng cao nhận thức của họ về vị trí, vai trò của họ trong chuỗi công việc của đơn vị, đồng thời kịp thời nhắc nhở những khi họ thiếu tập trung, xao nhãng trách nhiệm.

Hai là, rà soát về tổ chức bộ máy, xem xét lại chức năng, nhiệm vụ, định biên của từng đơn vị sự nghiệp công lập để có chủ trương kiện toàn củng cố các đơn vị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Để tinh giản biên chế ở các cơ quan tham mưu, giúp việc cần xác định lại vị trí việc làm trong tổ chức bộ máy, nhưng việc xác định này lại rất khó, vì công việc và yêu cầu thực hiện những công việc đó lại thường xuyên thay đổi. Cho nên, thay vì xác định vị trí việc làm một cách cứng nhắc trong tổ chức, nên xác định những loại công việc mà một tổ chức phải đảm nhiệm để biên chế nhân sự phù hợp, để khi biên chế vào đó tự tổ chức sẽ phân công nhiệm vụ cho mỗi nhân viên bên trong tổ chức. Thực hiện khoán công việc, tài chính và biên chế cho một tổ chức bộ phận của một ĐVSNCL là cách làm mà nhiều tổ chức hiện đại đang đi theo hướng này.

Trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển nhanh như hiện nay, tổ chức bộ máy của các ĐVSNCL phải được thiết kế theo hướng linh hoạt, có khả năng thay đổi nhanh các chức năng, nhiệm vụ của tổ chức khi điều kiện khách quan đã thay đổi. Thị trường các dịch vụ về giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, hoặc thị trường khoa học - công nghệ đòi hỏi nghiên cứu đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa đang chuyển động rất nhanh, tất yếu đòi hỏi các ĐVSNCL phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Thực tiễn giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe của nhân dân đặt ra nhu cầu nào, thì tổ chức bộ máy của các ĐVSNCL phải có tổ chức đáp ứng yêu cầu đó; nếu yêu cầu đó qua đi, thì tổ chức cũng phải nhanh chóng chuyển đổi cho thích ứng với thực tế. Ví dụ, hiện nay ở các trường đại học công lập chưa hình thành bộ phận nghiên cứu nhu cầu thị trường lao động liên quan đến sản phẩm đào tạo của các trường đại học, nhưng thực tiễn rất cần có bộ phận nghiên cứu nhu cầu thị trường, đánh giá chất lượng lao động mà nhà trường cung cấp cho thị trường. Vậy, bộ phận nào có thể thực hiện nhiệm vụ này mà không làm phình thêm bộ máy ĐVSNCL, có thể bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ, nâng cấp tổ chức, bố trí cán bộ cho phù hợp.

Ba là, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ, viên chức, người lao động cho phù hợp với tổ chức bộ máy đã được kiện toàn theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Hầu hết đội ngũ cán bộ, viên chức, người lao động làm việc trong các ĐVSNCL là lực lượng lao động được đào tạo có chuyên môn cao; là những nhà khoa học, giảng viên, nghiên cứu viên, bác sĩ, văn nghệ sĩ, chuyên viên kỹ thuật, nhân viên văn phòng có học hàm, học vị cao. Đội ngũ cán bộ làm công tác lãnh đạo, quản lý ở các ĐVSNCL cũng đều là những cán bộ có chuyên môn cao, được tín nhiệm bầu và bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý ở những đơn vị này. Điều này đặt ra hai vấn đề:

- Cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi đây là nhiệm vụ có tính chiến lược trước mắt và lâu dài trong sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng.

Từng đơn vị, quận, huyện phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của thành phố; coi trọng và quyết tâm thực thi chính sách giáo dục - đào tạo phù hợp là nhân tố quyết định tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển nhanh và bền vững. Đồng thời, để bố trí, sử dụng người lao động làm việc ở các ĐVSNCL phải lựa chọn những người được đào tạo, bồi dưỡng tốt để có những tài năng nhất định trên lĩnh vực công tác của mình.

- Người lao động khi được tuyển dụng vào tổ chức bộ máy vẫn phải thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực trên cương vị công tác của mình.

Phát triển khả năng học tập và tự học để không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn là một trong những đặc trưng nổi bật của những người lao động trong các ĐVSNCL. Nhưng, học tập như thế nào để không chất gánh nặng lên ngân sách nhà nước và thu nhập tăng thêm của các ĐVSNCL? Rõ ràng ở những đơn vị này phải vận dụng quan điểm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để tháo gỡ bài toán tài chính chi tiêu cho việc đào tạo lại và nâng cao trình độ.

Việc bố trí, sử dụng nhân sự ở các ĐVSNCL cần nhất quán chủ trương: kiên định bố trí những người có chuyên môn cao vào các vị trí “tác nghiệp” trực tiếp ở các đơn vị này như: các bộ môn giảng dạy ở khối nhà trường; ở các phòng thí nghiệm và xưởng sản xuất mẫu phẩm ở khối đơn vị nghiên cứu, chuyển giao; ở các khoa điều trị; ở các đơn vị nghệ thuật trực tiếp sáng tác, biểu diễn. Những người có chuyên môn cao hiện đang làm công việc gián tiếp, tham mưu, nên chuyển trở lại các đơn vị “tác nghiệp” trực tiếp nói trên. Để hỗ trợ cho việc điều chỉnh nhân sự theo hướng nói trên, cần thực hiện chính sách trả thù lao xứng đáng với những đóng góp của họ trên cương vị lao động trực tiếp. Với lực lượng lao động gián tiếp, trước mắt chỉ trả lương, thưởng theo quy định chung của chế độ lương và quỹ phúc lợi của ĐVSNCL.

Với đội ngũ cán bộ quản lý trong các ĐVSNCL, cần đổi mới mạnh mẽ phương thức lựa chọn, bố trí sử dụng cán bộ quản lý theo hướng kết hợp chặt chẽ xét chọn và thi tuyển người đứng đầu. Cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền quản lý cán bộ sẽ thực hiện quyền đưa cán bộ vào quy hoạch và chọn những cán bộ trong quy hoạch tại chỗ và ở nơi khác vào danh sách những người đủ phẩm chất, uy tín và những năng lực cần thiết vào danh sách những người cần thi tuyển để chọn người đứng đầu ĐVSNCL.

Bốn là, tập trung nguồn lực nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng công cụ đánh giá hiệu quả hoạt động cung cấp dịch vụ công; thúc đẩy cơ chế tự chủ, xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công.

Với mục tiêu tạo dựng uy tín, thương hiệu bằng chất lượng sản phẩm tiêu biểu, mỗi ĐVSNCL phải phát huy trí tuệ của tập thể người lao động, của cán bộ lãnh đạo, quản lý để xác định cho đúng những sản phẩm ấy, trong số những sản phẩm mà đơn vị vẫn đang tạo ra từ trước đến nay. Tập trung nguồn lực nâng cao chất lượng sản phẩm phải gắn liền với việc xây dựng bộ công cụ đánh giá hiệu quả hoạt động cung cấp dịch vụ công tại các đơn vị. Sự đánh giá của người dân, tổ chức dựa trên 4 tiêu chí: (1) tiếp cận dịch vụ; (2) Thủ tục dịch vụ công; (3) Sự phục vụ của viên chức; (4) Kết quả giải quyết thủ tục dịch vụ công. Phương pháp này cung cấp các chỉ số thành phần theo từng tiêu chí của dịch vụ, các chỉ số đánh giá chất lượng phục vụ của ĐVSNCL theo từng yếu tố của dịch vụ, giúp đơn vị quản lý, phân tích, xác định cụ thể mức độ hài lòng của người dân, tổ chức đối với dịch vụ được tiến hành khảo sát.

Các ĐVSNCL giữ vai trò chủ đạo, cung cấp hầu hết các dịch vụ công cho xã hội thì việc cải tiến, nâng cao chất lượng, đẩy mạnh cơ chế xã hội hóa theo hướng tinh gọn nhưng vẫn đảm bảo đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị, đi đầu là các cơ sở giáo dục các cấp, cơ sở y tế, khoa học công nghệ…những “địa hạt” có nguồn nhân lực chiếm tỷ lệ chi thường xuyên cao trong ngân sách nhà nước là yêu cầu cần thiết.

Hiện nay, hầu hết các ngành đều đồng tình với việc xã hội hóa, tự chủ kinh phí bởi đó là xu thế tất yếu để giảm gánh nặng của NSNN. Thực hiện có lộ trình việc xóa bỏ bao cấp qua giá, phí dịch vụ, đồng thờicụ thể hóa một số định hướng đổi mới cơ chế quản lý đối với các ĐVSNCL như: xác định khung giá, phí các DVSNC, xây dựng có lộ trình những khoản chi cố định như tiền lương, khấu hao tài sản…

Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, năng lực quản lý của cơ quan quản lý và người đứng đầu cơ quan quản lý trong các ĐVSNCL của thành phố.

Giao quyền tự chủ rộng rãi cho các ĐVSNCL hoàn toàn không phải là quá trình tư nhân hóa. Đảng bộ và chính quyền Thành phố nhất thiết vẫn phải lãnh đạo chính trị và quản lý nhà nước, tổ chức và định hướng phát triển của những đơn vị này. Nhà nước vẫn phải cấp ngân sách để bảo đảm hoạt động định hướng phục vụ cộng đồng, trước hết là những người lao động đông đảo trong xã hội, thực hiện phân phối phúc lợi của sự phát triển đất nước cho nhân dân qua các dịch vụ của ĐVSNCL. Hoạt động của những ĐVSNCL này hoàn toàn khác với các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập chính là ở chỗ thực hiện sứ mệnh phân phối phúc lợi xã hội nhằm phục vụ đông đảo nhân dân lao động. Với nhóm dân cư có khả năng chi trả cao, có thể tùy chọn các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập để hưởng các dịch vụ cao cấp hơn, đó là quyền của mỗi người dân.

Vì vậy các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan quản lý ở những ĐVSNCL vẫn tiếp tục thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị, quản lý cán bộ và tổ chức, tuy nhiên theo hướng mở rộng nguồn tuyển chọn cán bộ, công chức, viên chức, người lao động có tài năng từ nhiều nguồn khác nhau trong xã hội nhằm làm cho lực lượng lao động trong những đơn vị này có chất lượng tốt hơn. Sau này có thể thực hiện rộng rãi mô hình “hội đồng trường đại học” thay cho mô hình ban giám đốc được cấp có thẩm quyền bổ nhiệm như hiện nay, hội đồng trường có quyền chọn giám đốc quản trị trường đại học thì toàn bộ quá trình đó vẫn nằm trong phạm vi lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng hoạt động trong các ĐVSNCL. Hình thành hội đồng trường là nhằm tăng cường vai trò hỗ trợ, quản lý, giám sát của Nhà nước, của cộng đồng đối với quản trị đại học, nhằm làm cho các trường đại học công lập tiến bộ nhanh hơn nữa theo các chuẩn mực quốc tế, không phải là “buông” trách nhiệm của Nhà nước, của đảng bộ, chính quyền thành phố.

Với các ĐVSNCL khác được giao quyền tự chủ rộng hơn cũng vậy, quyền tự chủ được trao nhiều hơn để đơn vị phát triển đúng với kỳ vọng của nhân dân đối với sứ mệnh phục vụ của những đơn vị này.

Mặt khác, cấp ủy, tổ chức đảng ở các ĐVSNCL phải thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, thuyết phục, giáo dục chính trị tư tưởng cho người lao động, cảnh giác và ngăn chặn mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực xấu, phần tử thoái hóa, biến chất lũng đoạn các cuộc bầu cử cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các ĐVSNCL được mở rộng quyền tự chủ. Đối với người quản lý các ĐVSNCL là một tập thể, làm việc theo chế độ thủ trưởng, chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể lãnh đạo cấp cơ sở và cấp trên, trước hết phải là những cán bộ có trình độ chuyên môn, được tập thể lao động tín nhiệm, có năng lực quản lý hành chính và quản trị sự phát triển của đơn vị. Người cán bộ đứng đầu ĐVSNCL phải được chọn theo phương thức kết hợp xét chọn và thi tuyển công khai, minh bạch, khách quan.

Sáu là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của Thành ủy, công tác quản lý của chính quyền thành phố đối với hoạt động của các ĐVSNCL, sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng thuộc Thành ủy và chính quyền thành phố.

Các ĐVSNCL của Thành phố là công cụ để chính quyền thành phố thực hiện các chính sách phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và phục vụ cộng đồng; thông qua thiết chế các ĐVSNCL, Nhà nước phân phối phúc lợi xã hội cho đông đảo nhân dân lao động. Mở rộng quyền tự chủ của các ĐVSNCL là hình thức xã hội hóa nhằm phát huy các nguồn lực của nhân dân tham gia phát triển các ĐVSNCL, làm cho những đơn vị này lớn mạnh tương thích với những đòi hỏi của tình hình kinh tế - xã hội hiện tại. Vì vậy, trong quá trình phát triển của mình, các ĐVSNCL luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng phát triển của Thành ủy và các cấp ủy đảng trực thuộc. Chính sự lãnh đạo của Thành ủy là cơ sở để các ĐVSNCL xây dựng, phát triển đơn vị, thực hiện sứ mệnh phục vụ cộng đồng của đơn vị mình. Để lãnh đạo, định hướng phát triển các ĐVSNCL, Thành ủy ban hành nghị quyết, chủ trương về xây dựng tổ chức, bộ máy, cán bộ; về mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, nội dung hoạt động và thực hiện các chính sách tạo điều kiện cho các ĐVSNCL phát triển. Thành ủy lãnh đạo hệ thống chính trị Thành phố, đặc biệt là HĐND và UBND Thành phố thể chế hóa chủ trương, nghị quyết lãnh đạo của Thành ủy thành nghị quyết, quyết định, kế hoạch của HĐND và UBND, từ đó triển khai thực hiện quản lý về mặt nhà nước các hoạt động của ĐVSNCL.

Về phía chính quyền thành phố, việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất-kỹ thuật, tài chính, con người cho các ĐVSNCL không phải là gánh nặng, mà là nhiệm vụ thiết yếu, là cơ hội, điều kiện và phương tiện để cơ quan quản lý nhà nước tác động mạnh mẽ vào xã hội. Thông qua phát triển các ĐVSNCL, chính quyền thành phố tạo ra sự cân bằng, kéo giảm giá dịch vụ khu vực tư cho phù hợp với mức thu nhập chung của xã hội, làm cho quá trình phát triển giữa khu vực công và khu vực tư cân bằng, bình đẳng. Mặt khác, đầu tư cho các ĐVSNCL là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

Tuy nhiên, để tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, vai trò tổ chức và quản lý của chính quyền thành phố nhất thiết các cơ quan tham mưu, giúp việc của Thành ủy, UBND Thành phố phải đi sâu, đi sát các ĐVSNCL để hướng dẫn tổ chức thực hiện. Việc hướng dẫn tổ chức thực hiện của các cơ quan tham mưu chuyên môn có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển các ĐVSNCL của Thành phố. Các cơ quan tham mưu, giúp việc của chính quyền thành phố vừa có vai trò tham mưu cho UBND, vừa có vai trò quản lý nhà nước (được ủy quyền) đối với các ĐVSNCL, nên giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các ĐVSNCL với các cơ quan chuyên môn của UBND Thành phố sẽ nhận được hỗ trợ về mặt pháp lý, về lực lượng vật chất, kỹ thuật để phát triển.

 

ThS Hà Thị Bích Thủy

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền