Trang chủ    Thực tiễn    Giải pháp để phát triển kinh tế bền vững trong hội nhập quốc tế
Thứ năm, 24 Tháng 4 2014 16:38
2261 Lượt xem

Giải pháp để phát triển kinh tế bền vững trong hội nhập quốc tế

(LLCT) - Lựa chọn con đường đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế để đẩy nhanh và nâng cao chất lượng phát triển theo hướng bền vững, Việt Nam phải đối diện với nhiều thử thách, trong đó không loại trừ cả các cuộc khủng hoảng kinh tế với tính chất và quy mô tác động khác nhau.

Kết quả chống lạm phát, vượt qua khủng hoảng thế giới và triển vọng phát triển kinh tế bền vững ở nước ta đã, đang và sẽ còn tuỳ thuộc rất lớn vào quyết tâm và cách thức tháo gỡ các “nút thắt” sau:

Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ sự điều tiết, quản lý của Nhà nước với thị trường, coi trọng tính đồng bộ, hài hòa của các mục tiêu, các loại công cụ chính sách và sự phối giữa các cơ quan chức năng, giữ vững lòng tin cho khu vực kinh tế tư nhân và thị trường tài chính 

Yếu tố thông tin và lòng tin, nhất là trong khu vực kinh tế tư nhân và thị trường tài chính, có vai trò nhạy cảm và quan trọng đặc biệt, cả trong phát triển và quản lý khủng hoảng kinh tế. Đặc biệt, bảo đảm lòng tin và duy trì ổn định dòng vốn huy động và cho vay qua hệ thống các ngân hàng thương mại nói riêng, thị trường tài chính trong nước và quốc tế nói chung, ngày càng là điều kiện tiên quyết cho lối thoát ra khỏi khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế. Do vậy, cần ngăn ngừa sự xuất hiện và phát tán các tin đồn thất thiệt; tăng cường và thể chế hoá các phát ngôn và cung cấp thông tin chính thức có chất lượng và trách nhiệm pháp lý cao của các cơ quan và đại diện nhà nước, các tổ chức kinh doanh có liên quan, nhất là các bộ kinh tế - tài chính tổng hợp, cũng như của các ngành và doanh nghiệp đang có sự độc quyền kinh doanh cao. Đồng thời, đảm bảo hoàn thiện và tuân thủ các nguyên tắc quản lý kinh tế và cạnh tranh thị trường, giảm thiểu và khắc phục các biểu hiện lạm dụng công cụ quản lý hành chính, mệnh lệnh và hiện tượng “vận động hành lang”, “chạy chính sách” vì lợi ích ngành độc quyền, bất chấp lợi ích và uy tín quốc gia... Đảm bảo các biến động chính sách phải tường minh và có thể dự báo được trong xu hướng ổn định, nhất quán, phù hợp các nguyên tắc kinh tế thị trường và cam kết hội nhập, các thông lệ quốc tế.            

Cắt giảm các chi tiêu công không mang tính sản xuất và không phục vụ cho các mục tiêu bảo đảm xã hội; cải thiện căn bản cơ cấu và hiệu quả sử dụng vốn vay của khối các tổng công ty và tập đoàn doanh nghiệp nhà nước (DNNN), mà hiện đang chiếm giữ tới hơn 50% vốn đầu tư nhà nước, 70% tổng dư nợ quốc gia và hơn 80% tổng dư nợ tín dụng. Lạm phát (bao gồm cả lạm phát tiền tệ, lẫn lạm phát cơ cấu và lạm phát chi phí) sẽ gia tăng nếu không ngăn chặn kịp thời “sự liên minh” giữa các tập đoàn, tổng công ty nhà nước với các ngân hàng thương mại nhà nước và các quan chức có liên quan trong việc vay và cho vay vốn, đầu tư chéo, đầu tư đa ngành hàng nghìn tỷ đồng mang nặng tính đầu cơ, trục lợi cá nhân hoặc phe nhóm, lũng đoạn thị trường và lãng phí các nguồn lực quốc gia.          

Cần hỗ trợ sự hình thành những tập đoàn kinh tế mạnh trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, để chúng đủ mạnh, trở thành đối tác bình đẳng với các công ty nước ngoài không chỉ trên thị trường trong nước, mà còn cả trên thị trường khu vực và quốc tế.     

Sớm  thiết lập cơ chế thị trường cạnh tranh đầy đủ có sự kiểm soát một cách hiệu quả đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực chưa tự do hóa cao như ngành than và kinh doanh xăng dầu, và một số mặt hàng khác. Cụ thể là phải tạo ra sự cạnh tranh đầy đủ và lành mạnh trong việc cung cấp các sản phẩm và nguyên, nhiên liệu đầu vào thiết yếu của nền kinh tế, có như vậy mới bãi bỏ được sự kiểm soát hành chính về giá cả. Đồng thời, cần nâng cao năng lực và hiệu quả trên thực tế của Chính phủ trong công tác giám sát, kiểm soát và xử lý sự độc quyền và các vi phạm về giá từ phía các doanh nghiệp và các bên có liên quan. Các giải pháp và công cụ chính sách cần có trọng tâm, trọng điểm, cụ thể hoá chủ trương và cơ chế tổ chức thực hiện trong thực tiễn; đồng thời, cần có sự đồng bộ, nhất quán giữa việc ban hành, triển khai, giám sát, kiểm tra và chế tài hiệu quả các vi phạm chính sách trên thực tế... Trước mắt, cần tăng cường công tác kiểm toán giá và các chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp độc quyền hoặc gần như độc quyền để giảm thiểu các chi phí không hợp lý, làm giảm giá thành đầu ra của các sản phẩm, từ đó giúp giảm giá đầu vào của các doanh nghiệp và người tiêu dùng, góp phần hạ mức giá chung và nâng cao sự lành mạnh của thị trường và sự bình đẳng của xã hội, ngăn chặn hiện tượng lạm dụng trục lợi cá nhân, thậm chí biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp, nhóm...    

Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo, phản biện và chủ động các  phương án và giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn khủng hoảng           

Cần coi trọng đúng mức và phân biệt rõ giữa yêu cầu dự báo khách quan với mục tiêu chính sách và ý chí chủ quan. Dự báo cần bám sát, cập nhật và đưa ra các cảnh báo cần thiết về các biến động thị trường khách quan trong nước và quốc tế. Đồng thời, cần coi trọng dự báo tác động hai mặt của chính sách theo yêu cầu quản lý kinh tế thị trường. Việc dự báo, đánh giá tác động hai mặt tích cực và tiêu cực cả về xu hướng định tính và định lượng của việc áp dụng các chính sách và định mức cụ thể trong quá trình điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước là rất quan trọng, nhất là với những mặt hàng đầu vào nhạy cảm của đời sống kinh tế - xã hội đất nước.      

Cả lý thuyết lẫn thực tế đều cho thấy, xuất phát từ lợi ích hoặc mục tiêu cục bộ hạn hẹp của ngành và đơn vị mình, cũng như cả từ các sức ép đa chiều khác, các cá nhân hoặc tổ chức được phân công thực hiện dự báo, nếu có lợi ích gắn liền hoặc bị chi phối cao bởi các đơn vị kinh doanh độc quyền, chắc chắn trong quá trình tiến hành và công bố kết quả dự báo sẽ khó bảo đảm việc tính đúng, tính đủ và công khai các tác động hai mặt, nhất là mặt trái và các hệ lụy dây chuyền khôn lường do những chính sách và mức giá mà họ đề nghị và “mượn tay” Chính phủ áp đặt cho xã hội.      

Việc coi nhẹ các phản biện xã hội và các đánh giá tác động chính sách (định kỳ hoặc đột xuất) trước và sau khi ban hành do các tổ chức chuyên nghiệp và độc lập thực hiện theo đặt hàng của cấp có thẩm quyền khách quan cũng là một bất cập trong quy trình lập pháp nói chung, trong công tác dự báo kinh tế ở nước ta nói riêng. Việc thành lập bổ sung mạng lưới các cơ quan có chức năng chuyên trách xây dựng, phản biện và đề xuất hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước các cấp từ Trung ương xuống các địa phương, trước hết là phòng chính sách và dự báo kinh tế ở các sở kinh tế tham mưu tổng hợp cho chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (như Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính...) là cần thiết để khắc phục các hạn chế này, nhất là trong việc sớm phát hiện những bất cập, ngăn chặn sự lạm dụng và đề xuất bổ sung kịp thời cho các chính sách mà Trung ương đã ban hành.           

Ngoài ra, cần coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu và dữ liệu thông tin chuyên ngành trực tiếp phục vụ công tác dự báo kinh tế. Khắc phục tình trạng phân tán, chia cắt, rời rạc và thiếu chuẩn hoá, thống nhất giữa các nguồn và đơn vị quản lý thông tin, gây khó khăn cho các đơn vị và cá nhân có nhu cầu tiếp cận, khai thác và sử dụng, nhưng lại tạo ra những cơ hội thu lợi bất chính cho các tổ chức và cá nhân quản lý các thông tin đó, làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế và gia tăng sự lãng phí các nguồn lực xã hội. Chính phủ cần có nghị quyết chuyên đề về việc xây dựng hệ thống thông tin và dữ liệu kinh tế các cấp, cả về hệ thống các chỉ tiêu, bộ máy tổ chức và kinh phí thường xuyên, cũng như cơ chế khai thác tài nguyên thông tin quốc gia một cách minh bạch, công khai và thuận lợi, nhằm phục vụ các nhu cầu về thông tin kinh tế nói chung, phục vụ công tác dự báo kinh tế nói riêng.         

Ngoài ra, cần đảm bảo tính chuyên nghiệp và sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và các loại công cụ dự báo, giữa công tác dự báo với công tác tổ chức thực hiện. Dự báo tốt giúp các cơ quan quản lý nhà nước nâng cao hiệu quả điều hành thực tiễn. Mặt khác, các cơ quan làm công tác dự báo phải thường xuyên bám sát thực tiễn điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước sẽ giúp công tác dự báo thêm cơ sở tin cậy và mềm dẻo, chính xác hơn.     

Thứ ba, coi trọng đào tạo, thu hút, sử dụng và tôn vinh nhân tài, các doanh nhân, nguồn nhân lực trình độ cao và nâng cao chất lượng công tác cán bộ      

Cần có sự bứt phá mạnh dạn và thực chất hơn về cơ chế trong việc phát hiện, tuyển dụng và bảo vệ nhân tài, bắt đầu từ việc tiêu chuẩn hóa, công khai hóa và bình đẳng hóa các yêu cầu thi tuyển công chức, giám đốc, lãnh đạo cơ quan và các hoạt động tuyển dụng khác trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp và đơn vị có nhu cầu nhân lực. Các chế tài cũng cần sớm được xây dựng và thực thi có hiệu lực, đủ sức răn đe các vi phạm quy chế tuyển dụng và hợp đồng lao động. Phát triển thị trường nhân lực trình độ cao theo hướng chuyên nghiệp hóa là đòi hỏi ngày càng bức xúc trong thực tiễn đất nước.           

Thực tế đòi hỏi cần có sự đổi mới toàn diện trong công tác cán bộ: từ tiêu thức đánh giá, cách thức tuyển chọn, cơ chế phối hợp giữa trách nhiệm - tự chủ - giám sát - chế tài để cán bộ làm việc với trách nhiệm và năng lực sáng tạo cao nhất, để những người xứng đáng nhất cả về tài và đức được lựa chọn vào những vị trí quan trọng, để từ đó cải thiện năng lực, hiệu quả bộ máy công quyền. Phải coi trọng việc phát hiện, lựa chọn và sử dụng đúng những nhân tài, nếu chọn sai đầu đàn thì cả đội ngũ sẽ kém hiệu lực và phát sinh nguy cơ hạ thấp dần trình độ cán bộ, công chức nhà nước; cần tái lựa chọn liên tục, lấy hiệu quả công việc làm cơ sở đánh giá và lựa chọn chứ không phải bằng cấp, học vị, chức tước. Không chỉ sử dụng biện pháp giáo dục hành chính, mà còn cần dùng cả biện pháp cạnh tranh để nâng cao hiệu quả và kỷ luật lao động. 

Thứ tư, sớm nhận diện và kiên quyết khắc phục tư duy nhiệm kỳ và lợi ích nhóm, đấu tranh không khoan nhượng với tệ nạn tham nhũng         

Sự cố kết của các nhóm lợi ích với các nhà hoạch định chính sách theo tư duy nhiệm kỳ dễ dẫn tới các hành vi tham nhũng hoặc trục lợi cá nhân. Đó là những biểu hiện tha hoá trong sử dụng quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị ở các cấp, lĩnh vực, vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật. Chúng tạo ra các hiện tượng tiêu cực như: chạy chính sách, chạy dự án, chạy vốn, ...; làm sai lệch các tín hiệu thị trường, cơ cấu và định hướng các nguồn lực quốc gia, làm tăng nợ công và sự bất ổn vĩ mô; làm tăng nguy cơ lỏng lẻo và mất kiểm soát nhà nước và giảm sút hiệu quả đầu tư các cấp độ và quy mô; làm mất cơ hội và sức cạnh tranh trong kinh doanh; gây rủi ro chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô.           

Cũng như nạn tham nhũng, “lợi ích nhóm” và “tư duy nhiệm kỳ” luôn tiềm ẩn trong mỗi thể chế nhà nước. Tuy nhiên, sự phát triển và tác hại của chúng tùy thuộc vào sự tiến bộ và sức kiềm chế tự thân của mô hình phát triển và thể chế chính trị, cùng với sự hoàn thiện của hệ thống luật pháp, cũng như cơ chế cán bộ cụ thể của mỗi chính thể trong từng thời kỳ phát triển.           

Dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội phải được tăng cường, đi đôi với xây dựng một nhà nước pháp quyền mạnh. Hệ thống luật pháp phải rõ ràng, đồng bộ và nhất quán, đồng thời mang tính hiện đại, theo kịp trình độ phát triển luật pháp và thông lệ quốc tế. Các thủ tục hành chính phải đơn giản hoá, công khai, công bằng, thống nhất. Việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn trong hệ thống cơ quan hành chính phải gắn liền với tăng cường trách nhiệm trực tiếp, bảo đảm mọi tài sản xã hội, mọi luật định và mọi công việc nhà nước đều có người chịu trách nhiệm cụ thể, rõ ràng.             

Thứ năm, nâng cao chất lượng công tác hoạch định chính sách, pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã hội theo yêu cầu phát triển bền vững      

Yêu cầu hoàn thiện hệ thống luật pháp kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh đòi hỏi, một mặt, áp dụng thống nhất, liên tục hệ thống luật định chung cho cả nước, đảm bảo sự thống nhất của quản lý nhà nước...; mặt khác, cần chủ động phân cấp cho các địa phương quyền tự chủ cao nhất, kể cả việc xây dựng, triển khai các cơ chế đặc thù; tăng cường cải cách hành chính từ trên xuống, kiện toàn bộ máy tổ chức theo yêu cầu thực tế và nhiệm vụ quản lý nhà nước; giảm thiểu các bộ phận và thủ tục quản lý trung gian, chồng chéo, không rõ ràng và không cần thiết; phù hợp thông lệ quốc tế và cam kết hội nhập quốc tế.   

Cần sớm xóa bỏ độc quyền nhà nước trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh (trừ các lĩnh vực liên quan đến ổn định chính trị, an ninh quốc phòng); trước mắt cần ngăn chặn có hiệu quả việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Tự do hoá (xã hội hoá) mạnh hơn các lĩnh vực dịch vụ công ích và kinh doanh hạ tầng đô thị khác (nhất là vệ sinh môi trường, vận tải hành khách công cộng, kể cả bãi đỗ xe, cung cấp nước sạch, công viên...). Các quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội cần hướng tới tất cả các doanh nghiệp và thành phần kinh tế. Chi đầu tư phát triển kinh tế - xã hội từ các nguồn ngân sách nhà nước các cấp cần bảo đảm sự bình đẳng cho các đối tượng thụ hưởng.        

Thứ sáu, đẩy mạnh tái cấu trúc, đa dạng hóa, bình đẳng hóa và sự hợp tác, gắn kết giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế    

Thực tiễn cho thấy công ty cổ phần, công ty mẹ - con là loại hình tổ chức kinh doanh cơ bản, chủ yếu, phổ biến và hiệu quả nhất của nền kinh tế hiện đại bởi những lợi thế to lớn của nó trong việc giảm bớt được rủi ro kinh doanh, tập trung được các nguồn lực, tiết kiệm các chi phí kinh doanh, mở rộng kênh huy động vốn tài chính qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp... và đó cũng là định hướng lựa chọn cần thiết trong quá trình “tái cấu trúc” doanh nghiệp nói chung.         

 Hoàn thiện cơ sở pháp lý theo hướng tự do hóa và tạo thuận lợi, giảm thiểu các chi phí để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư vào tất cả các lĩnh vực, mà pháp luật không cấm và đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thị trường.        

Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cần thể hiện rõ trong vai trò định hướng và thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, góp phần ổn định và làm giảm khoảng cách giàu nghèo, giảm bất bình đẳng, bất công trong xã hội; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, không ngừng tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh...  

Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò định hướng đầu tư và hiện đại hóa cơ cấu kinh tế chung của kinh tế nhà nước, nhất là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; tập trung phát triển các doanh nghiệp, tập đoàn với tỷ lệ vốn nhà nước khống chế thuộc các lĩnh vực mang tính chất độc quyền cao như: xăng dầu, than, điện, hàng không, bưu chính viễn thông, cung cấp nước, đường sắt, các dịch vụ công khác mà Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm sức mạnh an ninh, quốc phòng của đất nước...      

Thứ bảy, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hợp lý và đi trước một bước      

Đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật hợp lý và đi trước một bước vừa là điều kiện tiên quyết, vừa là động lực và tạo cơ hội đầu tư phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội. Hạ tầng kinh tế và đối ngoại khác cũng cần được đặc biệt quan tâm phát triển đồng bộ, theo quy hoạch chung toàn quốc  trong dài hạn: cửa khẩu quốc tế, các kho vận ngoại quan, các nhà ga trung tâm; mạng lưới cung cấp nước sạch và thoát nước; hệ thống thu gom rác và xử lý chất thải công nghiệp, chất thải đô thị; nguồn và chất lượng nguồn điện năng; các sản phẩm dịch vụ viễn thông trên cơ sở các công nghệ tin học hiện đại...  

Cần thu hồi những tài sản đất đai và bất động sản cùng các tài nguyên công cộng khác trên địa bàn bị chiếm hữu trái phép, sử dụng sai mục đích, quá tiêu chuẩn hoặc không hiệu quả... để đưa vào thị trường vốn, tạo điều kiện phát triển hạ tầng đô thị, phát triển thị trường vốn, cải thiện môi trường đầu tư.          

Thứ tám, coi trọng các nhân tố chất lượng và yêu cầu phát triển bền vững     

Thực tế cho thấy, phát triển kinh tế luôn được coi là mục đích ưu tiên, đặc biệt trong thời kỳ đầu tăng tốc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nếu thiếu quan tâm hoặc bỏ qua các yêu cầu bồi dưỡng các giá trị xã hội chuẩn mực truyền thống và phổ biến của nhân loại cho cán bộ và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, sẽ là nguyên nhân hàng đầu gây ra tình trạng băng hoại đạo đức, tha hóa và gia tăng tội phạm. Đặc biệt, trong bước chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nếu không nắm vững trong nhận thức và xây dựng tốt các cơ chế “giảm sốc”, kìm hãm, trung hòa tác động mặt trái của cơ chế thị trường... thì dễ dẫn đến sự sùng bái một chiều, thiếu cân nhắc các giá trị thị trường. Hơn nữa, điều này còn khiến lợi ích của sự tăng trưởng kinh tế không tỏa đều, công bằng đến các tầng lớp xã hội, nhất là bộ phận dân cư “dễ nhạy cảm” như trẻ em, người già cô đơn, người tàn tật và người nghèo, thất nghiệp.

___________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2013

TS Nguyễn Minh Phong

Báo Nhân Dân

TS  Nguyễn Thị Kim Nhã

Tổng Công ty Bảo hiểm Bưu điện

 Nguyễn Trần Minh Trí

 Đại học Kinh tế quốc dân

 

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền