Trang chủ    Thực tiễn    Nghiên cứu khoa học gắn với xã hội hóa kết quả nghiên cứu ở Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III
Thứ năm, 22 Tháng 5 2014 14:24
2216 Lượt xem

Nghiên cứu khoa học gắn với xã hội hóa kết quả nghiên cứu ở Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III

(LLCT) - Là một trong những trung tâm nghiên cứu khoa học chính trị- xã hội ở khu vực, trong những năm qua, đội ngũ các nhà khoa học ở Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III đã có nhiều cố gắng để tạo ra những sản phẩm khoa học công bố, xã hội hóa, nhưng giá trị thay đổi hiện thực - điều quan trọng nhất dường như chưa đáng là bao.

1. Hoạt động nghiên cứu khoa học và xã hội hóa kết quả nghiên cứu tại Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III

Cùng với đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chính trị, công tác nghiên cứu khoa học (NCKH) được Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III xác định là một trong hai nhiệm vụ chính của Học viện.

Thời kỳ mới hợp nhất Trường Nguyễn Ái Quốc IV, Trường Nguyễn Ái Quốc XI và Trường Tuyên Huấn Trung ương II (2-1-1983), mặc dù lãnh đạo trường nhận thức được tầm quan trọng và quan tâm đến hoạt động này, nhưng do đội ngũ cán bộ giảng viên còn mỏng, nên công tác NCKH của trường mới bước đầu được hình thành. Mỗi khi Trường tổ chức hội thảo nào đó, thì một số cán bộ có khả năng “viết” tham gia. Hoạt động khoa học chỉ thực sự khởi sắc và bài bản hơn khi một số cán bộ giảng dạy của Trường được tăng cường từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là số cán bộ giảng dạy được đào tạo cơ bản từ Học viện Nguyễn Ái Quốc cao cấp.

Sự sôi động trong hoạt động khoa học của Trường Nguyễn Ái Quốc III thời kỳ này được thể hiện qua các hội thảo khoa học, các kỷ yếu và xã hội hóa một phần qua Nội san sinh hoạt khoa học (1983-1992). Đây là bước tạo đà cần thiết cho sự xuất hiện một Tạp chí có tầm vóc ảnh hưởng rộng lớn hơn trong hoạt động nghiên cứu khoa học và trong truyền bá, xã hội hóa các kết quả nghiên cứu.

Tạp chí Sinh hoạt lý luận là một tạp chí khoa học nằm trong hệ thống tạp chí quốc gia được Bộ Văn hóa-Thông tin cấp giấy phép số 422/BC ngày 19-12-1992, ra số đầu tiên vào năm 1993. Sự kiện này, không chỉ có ý nghĩa ghi nhận sự trưởng thành về khả năng nghiên cứu khoa của đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu của Trường Nguyễn Ái Quốc III lúc đó, mà còn đáp ứng đòi hỏi khách quan của công tác tuyên truyền, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, kịp thời phục vụ yêu cầu công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng, công cuộc đổi mới ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên và trong cả nước nói chung.

Tạp chí Sinh hoạt lý luận đi vào hoạt động cũng là lúc cuộc sống đặt ra một yêu cầu lớn  đối với Đảng, với giới lý luận và những người làm báo Việt Nam là làm gì và làm như thế nào để khẳng định và bảo vệ những giá trị chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chi Minh, khi mô hình CNXH ở Liên Xô và  ở các nước Đông Âu sụp đổ, đặt CNXH thế giới trước những thách thức to lớn.

Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp thời quán triệt những quan điểm, những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và chỉ ra phương hướng và trách nhiệm của giới lý luận ở nước ta. Đặc biệt, khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận mácxít vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Trên cơ sở định hướng đó, giới lý luận trong nước và đội ngũ các giảng viên, nghiên cứu viên ở Phân viện đã có nhiều bài viết khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của lý luận Mác-Lênin. Nhiều bài viết của giới lý luận trong và ngoài nước đã góp phần khẳng định: tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp nối học thuyết khoa học và cách mạng, phản ánh lợi ích và con đường đấu tranh để thực hiện những lợi ích đó của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở Việt Nam trong thế kỷ XX.

Tạp chí Sinh hoạt lý luận đã đăng tải những bài viết của các tác giả trong và ngoài Phân viện, trong đó phần lớn tập trung phản ánh những kết quả nghiên cứu lý luận khẳng định những giá trị của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời phản bác những quan điểm sai trái, những thủ đoạn của các thế lực chống phá chủ nghĩa Mác-Lênin, xuyên tạc, bóp méo nội dung thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình tồn tại và phát triển, Tạp chí luôn kịp thời có những bài viết với lập luận xác đáng khẳng định sự kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam và góp phần lý giải sự sụp đổ của các nước trong hệ thống XHCN thế giới không phải là sự sụp đổ của lý luận Mác-Lênin mà chỉ là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội không phù hợp, là hậu quả của đường lối cải tổ sai lầm, là do tác động của các thế lực thù địch đã, đang và tiếp tục chống phá CNXH. 

Cùng với việc chuyển tải các thành quả nghiên cứu khoa học của giới nghiên cứu truyền bá lý luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí đã tập trung tuyên truyền, quán triệt đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tổng kết thực tiễn, phổ biến kinh nghiệm của các địa phương trong khu vực; tham gia nghiên cứu lý luận, đặc biệt là lý luận về công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Tạp chí đã góp phần không nhỏ vào việc là sáng tỏ lý luận đổi mới của Đảng; nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ chốt cấp huyện trong khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Các bài viết đăng trên Tạp chí ngày càng mang đậm tính lý luận, tính thực tiễn, tính chiến đấu. Tạp chí không chỉ thực hiện tốt việc tuyên truyền, quán triệt và làm rõ cơ sở khoa học, thực tiễn những quan điểm cơ bản của Đảng và tư duy mới của Đảng về CNXH và con đường tiến lên CNXH  mà còn là diễn đàn, là nơi thể hiện trí tuệ của đông đảo cán bộ, đảng viên và của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN; thực hiện tuyên truyền, quán triệt Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần định hướng chính trị - tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động nghiên cứu khoa học và việc xã hội hóa kết quả của Tạp chí vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập: 

- Chưa có những công trình nghiên cứu cơ bản, và nếu có thì các quan điểm lý luận, sức thuyết phục và tính phê phán hạn chế. Nhiều vấn đề lý luận đặt ra vẫn chưa được nhìn nhận, giải đáp thấu đáo.

- Năng lực nghiên cứu, tổng kết thực tiễn nhằm kịp thời đề xuất giải pháp tháo gỡ những vấn đề đặt ra trong công cuộc đổi mới, hội nhập chưa có sự đột phá.

- Sự kết hợp, liên kết hoạt động nghiên cứu khoa học với việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý chưa có cơ chế cụ thể để thực hiện và vì thế kết quả của sự liên kết này cũng chưa được phản ánh một cách rõ nét trong các bài viết trên tạp chí.

- Những thành tựu của nhân loại và của giới khoa học Việt Nam trên các lĩnh vực chưa được cập nhật kịp thời và phản ánh tổng quan ở mức cần thiết  nhằm phục vụ cho hoạt động nghiên cứu.

- Mảng tuyên truyền các điển hình tiên tiến còn ít; việc tuyên truyền đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái còn thụ động, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của đội ngũ cán bộ tư tưởng và các nhà khoa học. Nội dung tuyên truyền còn dàn trải, đôi lúc còn cứng nhắc, mang tính áp đặt một chiều, chưa có luận giải thuyết phục.

2. Định hướng và những gợi ý từ phương diện tạo lập môi trường cho hoạt động sáng tạo của giới nghiên cứu

Ngày nay, phát triển bền vững phải dựa trên triết lý xem con người là trung tâm - con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Mọi chính sách, mọi chương trình phát triển phải hướng tới phục vụ nhu cầu ngày càng phong phú, ngày càng cao của chủ thể sáng tạo này. Nguồn nhân lực của một quốc gia,  trong quan niệm hiện đại thường được nói đến gồm: giai cấp những người lao động, giới doanh nhân, giới công chức-hành chính, các nhà chính trị và giới trí thức. Xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia hay vùng lãnh thổ (trong phạm vi quốc gia đó) xét đến cùng là chức trách, sứ mệnh của giới lãnh đạo, quản lý, giới trí thức nói chung ở mọi cấp độ và của các cơ sở có chức năng quản lý sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc gia.

Để có thể tạo ra được nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng đáp ứng yêu cầu thay đổi nhanh chóng và rộng khắp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện đại, không thể không quan quan tâm đến hoạt động nghiên cứu khoa học, bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.

Nghiên cứu khoa học là thiên chức cơ bản của giới trí thức. Theo nghĩa đó, người xưa đã xem đó là “nguyên khí của quốc gia”. Nhưng nguyên khí đó mạnh hay suy còn tùy thuộc vào thái độ và cách ứng xử của những người cầm quyền. Chính vì thế, trong khuôn khổ của sự liên kết “3 nhà” hiện nay, phải chăng các chủ thể lãnh đạo, quản lý cần chia sẻ với giới nghiên cứu khoa học bằng các hành động cụ thể sau:

Thứ nhất, tạo lập một môi trường cho sự tự do của những chủ thể sáng tạo

Một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận nhận thức mácxít là thừa nhận năng lực nhận thức của con người. Tuy vậy, thế giới vật chất không ngừng biến đổi, nên khả năng - năng lực nhận thức của con người luôn có tính lịch sử - xã hội. Và vì thế, mỗi con người cụ thể, mỗi thời đại cụ thể, cho dù đã gặt hái được kết quả vĩ đại nào đó trong giải thích thế giới và cải tạo thế giới thì đó cũng chỉ là một nấc thang của sự phát triển.Từ đó cho thấy, tiếp cận chân lý - điều mà con người có khả năng làm được và luôn mong muốn làm được nhiều hơn, không thể là một hành động tức thời, giản đơn, rập khuôn, máy móc, mà là một quá trình liên tục, biện chứng, tích cực và sáng tạo. Vai trò của nhân tố lãnh đạo, quản lý là tôn trọng và tạo không gian- môi trưòng cho sự tự do sáng tạo của các nhà khoa học chân chính.

Thứ hai, Nhà nước và xã hội cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết mọi công dân có thể thích nghi và trở thành chủ nhân có bản lĩnh trong thời đại mới

Ngày nay trí tuệ của con người dường như đang bước vào thời đại  thăng hoa, tạo ra sự thay đổi hằng ngày, hàng giờ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giờ đây sự thành công của mỗi quốc gia, dân tộc không còn phụ thuộc nhiều vào sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu phụ thuộc vào trình độ, năng lực trí tuệ của tất cả các tầng lớp cư dân, đặc biệt là của giới lãnh đạo, giới kinh doanh và tầng lớp trí thức - những người làm công tác nghiên cứu, sáng tạo trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính vì thế trong thời đại ngày nay, phương cách tốt nhất, có hiệu quả nhất để có thể làm giàu sự hiểu biết của mình bằng sự hiểu biết của nhân loại là biết cách khai thác thông tin trên mạng intenet.

Riêng trong lĩnh vực khoa học xã hội - nhân văn nói chung và khoa học lý luận chính trị nói riêng, ngoài vốn tri thức chuyên ngành, theo cảm nhận - kinh nghiệm và sự hiểu biết của bản thân, để có khả năng trở thành một nghiên cứu viên thực sự cần có kế hoạch để chủ động tích luỹ thêm ít nhất là những tri thức cơ bản của các ngành như triết học, kinh tế học và chính trị học... mới có thể hình thành nên một nền tảng tri thức và phương pháp luận đủ sức tiếp nhận và xử lý có hiệu quả nguồn thông tin phong phú, đa chiều.

Thứ ba, tạo lập thể chế và cơ chế để đánh giá, thẩm định thành quả và phân bổ hài hòa các giá trị - động lực của  hoạt động

Nhận thức khoa học cũng là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người. Nói cách khác, con người là chủ thể của mọi hoạt động sáng tạo, vì thế các yếu tố như lợi ích, lý tưởng, ý chí,… của chủ thể luôn là những nhân tố tham gia và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức. Lý tưởng, hoài bão và cả ý chí luôn có vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi của con người.

Một vấn đề đặt ra trong NCKH hiện nay là giải quyết bằng thể chế và cơ chế để bảo đảm xử lý hài hoà nhu cầu - lợi ích của các cấp độ chủ thể. Bởi lẽ, đảm bảo hài hoà về nhu cầu, lợi ích giữa các chủ thể đã, đang và sẽ là một trong những động lực trực tiếp kích thích mọi hoạt động của con người và xã hội loài người, trong đó có cả hoạt động NCKH.

Là một trong những trung tâm nghiên cứu khoa học chính trị- xã hội ở khu vực, trong những năm qua, đội ngũ các nhà khoa học ở Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III đã có nhiều cố gắng để tạo ra những sản phẩm khoa học công bố, xã hội hóa, nhưng giá trị thay đổi hiện thực - điều quan trọng nhất dường như chưa đáng là bao.

Trong sự phát triển của ngành khoa học xã hội hiện nay, nên chăng cần nhận thức về sự bức bách việc nâng cao tính ứng dụng các công trình. Đây không chỉ là đòi hỏi của thực tiễn và phải trở thành những đơn đặt hàng cụ thể của các địa phương. Đó cũng là phương thức cơ bản để các nhà khoa học tự khẳng định mình. Như thế, để NCKH có hiệu quả cần có sự liên kết và phối hợp chặt chẽ  giữa 3 cấp độ chủ thể có liên quan - từ cơ quan duyệt, giao đề tài đến người thực hiện đề tài và cuối cùng là đơn vị, địa phương triển khai - ứng dụng, thẩm định.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2013­­­­­­­­

 

PGS,TS Hồ Tấn Sáng

Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền