Đào tạo nguồn nhân lực an sinh xã hội đáp ứng yêu cầu bức thiết của xã hội
(LLCT) - An sinh xã hội (ASXH) bao gồm một hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước, các đối tác xã hội và tư nhân thực hiện nhằm hỗ trợ, nâng cao năng lực của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng quản lý những rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, thiên tai, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, khủng hoảng kinh tế dẫn đến mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận đến hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản. Ở Việt Nam, cấu trúc của hệ thống ASXH gồm 5 trụ cột: 1) Bảo hiểm xã hội; 2) Bảo hiểm y tế; 3) Bảo hiểm thất nghiệp; 4) Cứu trợ xã hội; 5) Trợ giúp và ưu đãi xã hội. 3 chức năng chiến lược là: Phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro.
So với mô hình phổ biến trên thế giới, hệ thống ASXH ở nước ta có một cấu phần đặc thù, đó là chính sách ưu đãi xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu cao cả là đền ơn, đáp nghĩa đối với sự hy sinh, cống hiến của những người có công với cách mạng, với đất nước; thực hiện trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội, chăm lo, bảo đảm cho người có công có cuộc sống ổn định và ngày càng được cải thiện. Các cấu phần này tương tác, hỗ trợ cho nhau để bao phủ các yêu cầu ASXH đa dạng. Trong đó, bảo hiểm là sự bảo đảm thay thế hay bù đắp một phần thu nhập của người dân khi họ gặp rủi ro trong đời sống (sức khỏe, tai nạn, mùa màng...) thông qua việc đóng thường xuyên một khoản tiền (phí bảo hiểm) cho tổ chức (nhà nước hoặc tư nhân) tương ứng với xác suất xảy ra và chi phí của rủi ro liên quan đến chu kỳ sống của người lao động và gia đình họ(1). Trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước tađãluôn quan tâm, chăm lo thực hiện các chính sách về an sinh xã hội; chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực này.
1. Quan điểm, chủ trương về an sinh xã hội
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm thực hiện tốt công tác ASXH.
Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng ta đã coi chính sách xã hội là chính sách bao trùm lên mọi mặt đời sống của con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ giai cấp, dân tộc. Thuật ngữ “an sinh xã hội” lần đầu tiên sử dụng trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng (4-2001): “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm đối với người lao động thất nghiệp”(2); “Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã hội những người gặp rủi ro, bất hạnh”(3).
Đại hội X của Đảng đã xác định: “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (BHYT), tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội”(4). Đại hội XI (2011) nhấn mạnh đến nội dung kết hợp tăng trưởng kinh tế với chính sách ASXH nhằm đáp ứng yêu cầu đất nước trong giai đoạn mới, chủ động, hội nhập quốc tế và tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán: “Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa...”(5).
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1-6-2012, đề ra các mục tiêu, phương hướng và giải pháp thực hiện một số vấn đề về chính sách xã hội, trong đó có chính sách ASXH giai đoạn 2012 - 2020. Nghị quyết đã đặt ra yêu cầu: “Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ...”(6), đồng thời thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bảo hiểm mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn cảnh khó khăn. Điều này thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của xã hội nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động,...”(7).
Chính sách về ASXH đã được cụ thể hóa, pháp chế hóa thành các văn bản pháp lý, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả khi triển khai thực hiện. Trong 30 năm đổi mới, Nhà nước ban hành trên 50 loại chính sách cụ thể về lĩnh vực ASXH(8).
Công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về ASXH được quan tâm và đã đạt được những tiến bộ quan trọng, tạo điều kiện cho mọi người dân tiếp cận chính sách, pháp luật. “Chính sách an sinh xã hội được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trên các lĩnh vực lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, ưu đãi người có công và bảo trợ xã hội. An sinh xã hội cơ bản được đảm bảo, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Nhận thức của người dân về tự bảo đảm an sinh xã hội có tiến bộ, việc huy động các nguồn lực xã hội cho chính sách xã hội tốt hơn. Đã hoàn thành mục tiêu phát triển thiên niên kỷ(9).
2. Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực an sinh xã hội hiện nay
ASXH không đóng góp (còn gọi là trợ giúp xã hội) thường được thực hiện bởi các nhân viên công tác xã hội chuyên hỗ trợ, giúp đỡ những người gặp khó khăn, người nghèo, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, phụ nữ, người già... Sứ mệnh của ngành công tác xã hội là nỗ lực hành động nhằm giảm thiểu những rào cản trong xã hội, sự bất công và bất bình đẳng. Đối tượng được chăm sóc, phục vụ là những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt, những người cần chăm sóc sức khỏe, được bảo vệ, che chở...
Nguồn nhân lực làm việc trong hệ thống ASXH có vai trò quan trọng, quyết định trực tiếp tới chất lượng và hiệu quả thực thi các chính sách ASXH ở nước ta. Hiện nay, ở các nước phát triển, đặc biệt là Australia và các nước Bắc Mỹ, chuyên ngành đào tạo về ASXH thu hút nhiều người theo học. Ở Việt Nam hiện nay, ASXH vẫn chưa trở thành một ngành đào tạo chính thức.
Nguồn nhân lực thực hiện các chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay là những người tham gia các công tác như: đào tạo nghề, dịch vụ lao động - việc làm, thực hiện các chính sách với người có công, bảo trợ xã hội, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, phòng chống tệ nạn xã hội tại các cơ sở bảo trợ xã hội... Tính đến năm 2010, cả nước có trên 500 cơ sở bảo trợ xã hội và các cơ sở trợ giúp xã hội (trong đó 250 cơ sở công lập, còn lại là do các tổ chức xã hội và cá nhân thành lập), bảo trợ khoảng 80 nghìn đối tượng. Cả nước hiện có 35.230 cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên làm việc trong lĩnh vực công tác xã hội. Tuy nhiên, phần lớn cán bộ nhân viên (chiếm 81,5%) chưa qua đào tạo công tác xã hội, mà chủ yếu đã được đào tạo nhiều ngành nghề khác nhau. Chính vì vậy, “phương pháp chăm sóc trị liệu tâm lý, phục hồi chức năng và trợ giúp các đối tượng tại cơ sở còn nhiều hạn chế, không phù hợp với nhu cầu thực tiễn hiện nay và xu hướng chung của thế giới”(10).
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Đề án 32 về phát triển nghề công tác xã hội chuyên nghiệp tại Việt Nam 2010-2020 (QĐ 32/2010/QĐ-TTg) với mục tiêu đến năm 2020: Phát triển nghề công tác xã hội chuyên nghiệp; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên công tác xã hội đạt yêu cầu về số lượng và chất lượng(khoảng 60 nghìn người)(11). Hiện nay, đã có một số trường đại học, cao đẳng đào tạo như chuyên ngành ASXH Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, Học viện Tài chính, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Lao động - Xã hội, Đại học Hàng hải). Ngành bảo hiểm, ngành công tác xã hội có một số trường đào tạo hơn: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Công đoàn, Đại học Lao động - Xã hội, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh, Đại học Mở TP Hồ Chí Minh... Về tính chuyên nghiệp của công tác xã hội, so với các nước phát triển, chúng ta còn một khoảng cách khá xa.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ ngành ASXH ngày càng được đào tạo chính quy, bài bản hơn, đặc biệt là chuyên ngành bảo hiểm và công tác xã hội. Phần lớn sinh viên và học viên sau khi tốt nghiệp đều làm đúng chuyên ngành đào tạo. So với yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao,công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành ASXH hiện nay còn nhiều tồn tại, bất cập cả về số lượng tuyển sinh, nội dung chương trình và phương pháp đào tạo.
Theo Cục Bảo trợ Xã hội (Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội), sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Đề án 32 về Phát triển nghề công tác xã hội, cả nước đã có hơn 32 nghìn cán bộ, nhân viên công tác xã hội được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ. Trong đó, 1.307 người được đào tạo trình độ trung cấp, 820 người được đào tạo đại học, 2.625 người được đào tạo lại. Bên cạnh đó, đã đào tạo, bồi dưỡng 285 giảng viên dạy nghề công tác xã hội cho các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề trong cả nước; tổ chức lớp đào tạo cán bộ quản lý công tác xã hội cấp cao cho 150 cán bộ. Theo thống kê, bình quân mỗi năm, các cơ sở đào tạo công tác xã hội trên cả nước đã đào tạo khoảng 2.500 cử nhân công tác xã hội hệ chính quy(12).
Hiện nay, cả nước có 55 trường đại học, cao đẳng và 21 cơ sở dạy nghề có đào tạo chuyên ngành Công tác xã hội (năm 2010 chỉ có 1 - 2 cơ sở), thu hút hàng nghìn học sinh, sinh viên theo học. Trong đó, 5 trường đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ ngành Công tác xã hội. Hàng năm, các cơ sở này đào tạo khoảng 3.500 cử nhân và khoảng 3 nghìn học viên; hỗ trợ các tỉnh, thành phố bồi dưỡng nâng cao năng lực cho 10 nghìn cán bộ, nhân viên công tác xã hội(13). Đội ngũ cán bộ, nhân viên, cộng tác viên công tác xã hội do vậy, có phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Về lĩnh vực bảo hiểm, trong những năm qua, đội ngũ cán bộ, viên chức ngành bảo hiểm xã hội không ngừng tăng lên cả về số lượng, chất lượng và trình độ đào tạo. Theo số liệu của cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm 2014, toàn ngành có 20.149 cán bộ, viên chức. Trong đó, 18.745 người (chiếm 93%) có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ liên quan trực tiếp đến công tác hiểm xã hội, BHYT, chính trị, ngoại ngữ, tin học; cụ thể: toàn ngành có 595 người có trình độ trên đại học (10 tiến sỹ và 585 thạc sỹ) (chiếm 3%), 15.743 người có trình độ đại học (chiếm 78%), 700 người có trình độ cao đẳng (chiếm 3,5%), 1.707 người trung cấp (chiếm 8,5%), 1.404 người (chiếm 7%) chưa qua đào tạo làm các công tác tạp vụ(14).
Về cơ bản, đội ngũ cán bộ, viên chức trong toàn hệ thống ASXH có phẩm chất đạo đức tốt, làm việc có trách nhiệm, luôn lấy sự hài lòng của người lao động và của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; ý thức kỷ luật cao, đoàn kết, có thái độ nhã nhặn, giao tiếp lịch sự.
Để nâng cao chất lượng về ASXH ở Việt Nam hiện nay, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, mở chuyên ngành đào tạo ASXH ở các trường đại học, chuyên nghiệp
Để phát triển hệ thống ASXH, nhất thiết phải có đủ nguồn nhân lực trong lĩnh vực này. Nhiều nước trên thế giới đã quan tâm phát triển đào tạo ngành này. Với xu thế hiện nay, ASXH là ngành có nhiều triển vọng, cơ hội việc làm rộng mở. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn chưa có trường đào tạo chuyên ngành này. Do đó, hoàn thiện hệ thống ASXH nói chung và đào tạo nguồn nhân lực về ASXH nói riêng là yêu cầu bức thiết hiện nay. Bộ Giáo dục Đào tạo cũng như các trường cần nghiên cứu, đánh giá về nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực ASXH, từ đó sớm có kế hoạch mở chuyên ngành đào tạo này, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao thực hiện và giải quyết các vấn đề ASXH.
Hai là, đào tạo, bồi dưỡng và tự học, không ngừng nâng cao kiến thức, kỹ năng của đội ngũ cán bộ làm công tác ASXH
Thực tế hiện nay, nguồn nhân lực trong lĩnh vực ASXH ở nước ta được đào tạo từ nhiều chuyên ngành khác nhau; trong khi pháp luật, các chính sách về ASXH còn có sự thay đổi, đòi hỏi những người làm công tác này phải thường xuyên tự học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc. Đặc biệt, cần tăng cường tổ chức cho đội ngũ làm công tác ASXH trao đổi kinh nghiệm thực tế, thực tập tình huống trong quá trình đào tạo và rèn luyện kỹ năng trong quá trình công tác.
Ba là, có chế độ, chính sách khuyến khích, động viên, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ làm công tác ASXH
Thực tế cho thấy, đời sống, thu nhập của phần lớn cán bộ, nhân viên làm việc trong lĩnh vực ASXH còn khó khăn. Để giúp đội ngũ cán bộ về ASXH yên tâm công tác, làm tốt nhiệm vụ của mình, cần phải có các chế độ đãi ngộ và khuyến khích thỏa đáng như: Được tuyển dụng vào biên chế nếu kết quả học tập tốt, hỗ trợ kinh phí đào tạo, được tăng lương trước thời hạn, được bố trí công việc phù hợp năng lực, sở trường. Làm tốt giải pháp này sẽ thu hút được đội ngũ cán bộ làm công tác ASXH có trình độ chuyên môn, có kỹ năng làm việc tốt về công tác và gắn bó lâu dài.
Bên cạnh đó, cần rà soát, điều chỉnh quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội định hướng phù hợp với chiến lược phát triển quốc gia; từ đó có cơ sở để cơ cấu lại hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Chú trọng đào tạo nghề dài hạn, có sự phân tầng chất lượng, ưu tiên đào tạo những nghề mũi nhọn, đáp ứng nhu cầu xã hội. Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp, phân luồng nhân lực, trên cơ sở đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả đào tạo, tránh lãng phí nguồn lực.
________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2017
(1) Viện Khoa học lao động và xã hội (ILSSA) và GIZ: Thuật ngữ ASXH Việt Nam, 2010.
(7), (9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr.14, 137, 237-238.
(2), (3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.105.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.102.
(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.316.
(6) ĐCSVN: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020,1-6-2012.
(7) Nguyễn Hữu Dũng: Hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng phát triển, Tạp chí Khoa học,Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế và kinh doanh 26, 2010, tr.118-128.
(8) Cổng thông tin điện tử Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Hội thảo đào tạo cán bộ, nhân viên công tác xã hội, cập nhật ngày 31-10-2010.
(9) Vietnam Social Work Network: Trên 32.000 cán bộ, nhân viên công tác xã hội được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ.
(10) Báo mới: Đẩy mạnh đào tạo nghề công tác xã hội.
(11) Đặng Mai Phương: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Trường Đại học Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2015, tr.44-45.
ThS Nguyễn Thị Thu
Đại học Lao động - Xã hội