Quốc tế

Nguồn gốc tư tưởng sáng kiến “Cộng đồng chung vận mệnh” của Trung Quốc

01/11/2025 09:52

(LLCT) - Sáng kiến “Cộng đồng chung vận mệnh” là một trong những nội dung cốt lõi trong tư tưởng ngoại giao của Trung Quốc, là trụ cột quan trọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc thế kỷ XXI. Bài viết phân tích nguồn gốc tư tưởng của sáng kiến “Cộng đồng chung vận mệnh” của Trung Quốc khởi xướng, từ ba trụ cột: Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông; truyền thống văn hóa - tư tưởng Trung Hoa; tham chiếu, tham khảo các lý thuyết quan hệ quốc tế hiện đại như chủ nghĩa hiện thực, tự do và kiến tạo.

ThS HỒ QUỐC PHÚ
Vin Chính tr và Quan h quc tế
Học vin Chính tr quc gia H Chí Minh

Lễ khánh thành Trung tâm Nghiên cứu Cộng đồng chung vận mệnh được tổ chức tại Bắc Kinh_Ảnh: mfa.gov.cn

1. M đu

Mặc dù được chính thức nêu ra tại các diễn đàn quốc tế từ năm 2013, nguồn gốc tư tưởng của sáng kiến này không chỉ bắt nguồn từ bối cảnh quốc tế hiện đại, mà còn được hình thành trên nền tảng lý luận sâu rộng và đa tầng lớp: từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, truyền thống văn hóa - tư tưởng Trung Hoa đến tham khảo các lý thuyết quan hệ quốc tế hiện đại.

Việc nhận diện nguồn gốc tư tưởng của sáng kiến “Cộng đồng chung vận mệnh” có ý nghĩa quan trọng trong việc lý giải sâu sắc định hướng chiến lược của Trung Quốc trong bối cảnh chuyển biến địa chính trị hiện nay.

2. Ni dung

2.1. Ch nghĩa Mác - Lênin, tư tưng Mao Trch Đông - nn tng tư tưng ca Cng đng chung vn mnh

Lịch sử Trung Quốc hiện đại là lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - chính đảng mácxít của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Trung Hoa. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều lệ Đảng Cộng sản Trung Quốc ghi rõ: “Đảng Cộng sản Trung Quốc lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng “Ba đại diện”, quan điểm khoa học về phát triển và tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới làm kim chỉ nam cho hoạt động”(1).

Trong quan hệ quốc tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương “thúc đẩy xây dựng một cộng đồng có tương lai chung cho nhân loại và thúc đẩy xây dựng một thế giới hòa bình lâu dài, an ninh toàn cầu, thịnh vượng chung, cởi mở, toàn diện, trong sạch và tươi đẹp”(2). Vì thế, chính sách đối ngoại của Trung Quốc là sự vận dụng sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Hai nền tảng lý luận này không chỉ phục vụ cho việc xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn định hình hướng đi của Trung Quốc trên trường quốc tế.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, với nguyên lý cơ bản về đấu tranh giai cấp, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển quan hệ quốc tế trên cơ sở bình đẳng, hợp tác và đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc. Tư tưởng Mao Trạch Đông bổ sung cho lý thuyết này bằng cách nhấn mạnh vai trò của nhân dân và sự tự lực cánh sinh trong chính sách đối ngoại. Điều này cho thấy sự gắn kết chặt chẽ giữa lợi ích dân tộc và các chiến lược ngoại giao mà Trung Quốc đang thực hiện.

C.Mác đã nghiên cứu về “cộng đồng” trong quá trình xây dựng, phát triển lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học. Theo C.Mác, “cộng đồng” có ba dạng: (i) Cộng đồng tự nhiên - xuất hiện khi sức sản xuất còn hết sức thấp kém, con người phụ thuộc vào tự nhiên, tất yếu phải liên kết để tồn tại, (ii) Cộng đồng ảo tưởng - hình thành khi xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với động lực là các cuộc cách mạng công nghiệp làm xã hội hóa lực lượng sản xuất, nhu cầu hình thành quốc gia - dân tộc để thống nhất thị trường, lợi ích chung cá nhân nhận được là giả tạo, hư cấu, vì thực tế, mọi lợi ích cơ bản đều thuộc về giai cấp thống trị, (iii) Cộng đồng thực sự - chủ nghĩa cộng sản, xuất hiện khi lực lượng sản xuất đạt trình độ xã hội hóa cao, tư hữu bị xóa bỏ, lợi ích được phân phối cho các thành viên cộng đồng theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, buổi đầu xã hội loài người, do năng suất lao động thấp kém, một “cộng đồng” được hình thành để con người có thể tồn tại và phát triển trong tự nhiên. Khi năng suất lao động tăng lên, chế độ tư hữu xuất hiện làm tan rã “cộng đồng tự nhiên”, dần tạo ra “cộng đồng ảo tưởng”. Loại hình cộng đồng này đóng vai trò tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển xã hội. Nhưng cộng đồng dựa trên sở hữu tư nhân luôn chứa đựng những mâu thuẫn không thể điều hòa được. Mâu thuẫn giữa lợi ích riêng và lợi ích chung luôn tồn tại, gây ra sự chia rẽ, đối đầu giữa con người với nhau, cản trở sự phát triển tự do, toàn diện của mọi người.

Từ góc độ lịch sử, “cộng đồng ảo tưởng” là một giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của xã hội, đồng thời nó cũng tất yếu sẽ bị xóa bỏ sau khi đã tạo ra những tiền đề kinh tế - xã hội cho sự ra đời “cộng đồng thực sự”.

Trong “cộng đồng ảo tưởng” - nhà nước của giai cấp tư sản, dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa cao luôn mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.

Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng là vô sản và tư sản. Khi mâu thuẫn này đến mức không thể điều hòa được, tất yếu dẫn đến cách mạng vô sản, đưa đến sự ra đời của “cộng đồng thực sự” - Cộng đồng cộng sản chủ nghĩa có tính chất toàn thế giới. Trong mô hình cộng đồng này, không còn tình trạng người bóc lột người, con người được giải phóng toàn diện, làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự tự do của cả cộng đồng.

Những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về “cộng đồng” là nền tảng tư tưởng cho sáng kiến “cộng đồng chung vận mệnh” của Trung Quốc. Th nht, Trung Quốc cho rằng mô hình cạnh tranh tuyệt đối, chính trị cường quyền của chủ nghĩa tư bản đe dọa đến vận mệnh toàn nhân loại. Sự phồn hoa của kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa không đem lại hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người. Thế giới cần một mô hình quan hệ quốc tế mới công bằng, bình đẳng hơn. Th hai, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới xu thế toàn cầu hóa, tạo ra tiền đề để mọi quốc gia, mọi cá nhân phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều phương diện. Đây là cơ sở hình thành vận mệnh chung ràng buộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Th ba, “Cộng đồng chung vận mệnh” của Trung Quốc mô tả về thế giới - “nơi người dân cùng nhau làm việc để bảo vệ quê hương và chia sẻ sự thịnh vượng”(3) – là kết quả phát triển sáng tạo trong thực tiễn của Trung Quốc về “cộng đồng thực sự” của C.Mác.

Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin đề cao vấn đề giai cấp, thì tư tưởng Mao Trạch Đông coi yếu tố “dân tộc” là một động lực quan trọng trong quan hệ quốc tế. Từ cơ sở lý luận này, Trung Quốc đề cao yếu tố dân tộc trong xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh”. Thực chất đây là mô hình quan hệ quốc tế lấy Trung Quốc làm hạt nhân, và điều này được minh chứng qua logic xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh” với cấu trúc “các vòng tròn đồng tâm” 5 cấp độ: (i) Dựa vào Trung Quốc và xây dựng “Cộng đồng dân tộc Trung Hoa”, (ii) Tập trung vào quan hệ song phương và xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai với các nước láng giềng, (iii) Hướng ra khu vực xung quanh và xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai cho khu vực xung quanh, (iv) Đối mặt và xây dựng một cộng đồng tương lai chung với tất cả các khu vực trên thế giới(4).

2.2. Truyn thng tư tưng, văn hóa Trung Hoa - ci ngun tư tưng Cng đng chung vn mnh

Với 5.000 năm lịch sử, một trong những cái nôi cổ xưa của nền văn minh nhân loại, hệ thống giá trị văn hóa - tư tưởng truyền thống của Trung Quốc chứa đựng bề dày những quan niệm, triết lý về nhân sinh quan, thế giới quan và quản trị xã hội. Trong lịch sử, quá trình tồn tại và phát triển của dân tộc Trung Hoa luôn gắn liền với hoạt động mở rộng lãnh thổ tộc người và truyền bá văn hóa ra bên ngoài nhằm tạo ra sự thống nhất về tư tưởng, phục vụ hiệu quả cho xây dựng cộng đồng dân tộc, duy trì quyền quản lý xã hội của các tầng lớp cầm quyền và tăng cường ảnh hưởng ở các khu vực lân bang. Điều kiện tự nhiên, bối cảnh lịch sử và quá trình phát triển của dân tộc Trung Hoa đã tạo tiền đề cho việc hình thành, phổ biến những giá trị tư tưởng - văn hóa có ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống chính trị Trung Quốc.

Nho giáo, một hệ tư tưởng - văn hóa có xuất xứ và ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Trung Quốc, chủ trương coi “đức trị” là phương pháp căn bản để quản trị xã hội và hành vi cá nhân. Theo quan điểm Nho giáo, thực hành triệt để đạo đức là cơ sở để xã hội ổn định, phồn vinh. Từ quan điểm này, xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh” hướng đến hình thành hệ thống “giá trị đạo đức” để quản lý hiệu quả môi trường quốc tế thay cho phương cách quản lý dựa trên quyền lực. Mô hình xã hội theo quan điểm Nho giáo - suy rộng ra là mô hình quan hệ quốc tế - là mô hình có trật tự, thứ bậc nhưng không bất biến, và có thể bằng các con đường khác nhau tiến tới “thế giới đại đồng”. Đây có thể là lý do Trung Quốc tin rằng, thế giới đa dạng về kinh tế, văn hóa và trình độ phát triển - nhưng bằng con đường xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh” - sẽ tiến đến tương lai cùng thịnh vượng và chấp nhận sự khác biệt.

Pháp gia, một trong những tư tưởng - văn hóa truyền thống ảnh hưởng của Trung Quốc. Những người theo phái Pháp gia coi trọng vấn đề chính trị, an ninh hơn đạo đức và xem lợi ích là cơ sở đánh giá các quan hệ xã hội. Sự khác biệt và tranh giành lợi ích là nguồn cơn của những bất ổn. Thiết lập và thực thi pháp luật triệt để là phương pháp tốt nhất để xã hội ổn định và bảo vệ quyền lực của tầng lớp tinh hoa. Tư tưởng Pháp gia ảnh hưởng tới nội hàm “Cộng đồng chung vận mệnh”, khi Trung Quốc cho rằng: Thứ nhất, lợi ích là cơ sở của quan hệ quốc tế. Thứ hai, sự “hỗn loạn” của trật tự thế giới hiện nay có nguồn gốc từ cấu trúc lợi ích không cân bằng, dẫn đến an ninh quốc tế luôn bị đe dọa. Thứ ba, cần xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh” với các ưu tiên về chính trị, an ninh trên cơ sở cân bằng, hài hòa lợi ích. Thứ tư, hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng sẽ góp phần đưa thế giới đến một tương lai thịnh vượng.

Lý thuyết thiên hạ” có ảnh hưởng lớn trong việc xác định tầm nhìn về mô hình quan hệ quốc tế và trật tự thế giới với Trung Quốc là hạt nhân. Tuy không tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh các luận điểm mà chủ yếu xuất hiện ở dạng quan niệm, lý thuyết “thiên hạ” vẫn chứa đựng những nội dung rõ ràng về cách thức Trung Quốc xác định mục tiêu và hành vi trong quan hệ quốc tế.

Theo lý thuyết này, “thiên hạ” - hay “tất cả dưới gầm trời” là một cộng đồng bao gồm Trung Quốc và các quốc gia vệ tinh chịu ảnh hưởng của Trung Quốc theo mô hình “thiên tử - chư hầu”. Mô hình này quy định rõ vai trò của Trung Quốc - một trung tâm có sứ mệnh định sẵn dẫn dắt và trách nhiệm bảo đảm lợi ích cho các quốc gia trong hệ thống. Sứ mệnh dẫn dắt, trách nhiệm “thiên tử” và nghĩa vụ phục tùng của “chư hầu” là ba yếu tố nền tảng của lý thuyết “thiên hạ” - vốn rất phổ biến trong xã hội Trung Quốc từ lịch sử cho đến hiện tại.

Khái niệm “Cộng đồng chung vận mệnh” không phải là một phát kiến hoàn toàn mới, mà là kết tinh của nhiều lớp tư tưởng, từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông đến các giá trị truyền thống Trung Hoa và tham chiếu, tham khảo lý thuyết quan hệ quốc tế hiện đại.

Dưới góc độ khoa học quan hệ quốc tế, lý thuyết “thiên hạ” cung cấp tầm nhìn và mục tiêu cho Trung Quốc trong xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh”. Theo đó, Trung Quốc sẽ là một trung tâm quyền lực, có sứ mệnh duy trì một nền hòa bình kiểu Trung Hoa và dẫn dắt “thiên hạ” - hay toàn bộ thế giới thông qua mô thức “thiên triều - chư hầu”. Các nước xung quanh có nghĩa vụ phục tùng Trung Quốc. Đổi lại, Trung Quốc có trách nhiệm bảo đảm tính chính danh và lợi ích của các quốc gia vệ tinh. Lợi ích này không đe dọa, xâm phạm đến lợi ích Trung Quốc và không nằm ngoài hệ thống lợi ích mà Trung Quốc chủ trương thiết lập. Cũng theo tư tưởng này, Trung Quốc sẽ thiết lập mạng lưới quan hệ “chung vận mệnh” và tăng cường hỗ trợ các quốc gia nhằm đối trọng và tiến tới gạt bỏ những chủ thể có tham vọng gây ảnh hưởng, chi phối, đe dọa đến an ninh và cạnh tranh vị thế của Trung Quốc.

Ngoài các giá trị tư tưởng - văn hóa trên, triết lý phái Đạo gia cũng ảnh hưởng đến “Cộng đồng chung vận mệnh” của Trung Quốc. Nguyên lý của trường phái tư tưởng này đề cao việc sống hòa hợp với quy luật tự nhiên, nhấn mạnh vào giá trị của sự mềm dẻo, linh hoạt, khả năng thích ứng với quy luật tự nhiên. Điều này giải thích cho việc Trung Quốc luôn coi việc xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh” là một định hướng đúng quy luật - và do đó - các đối tác tham gia vào sáng kiến “Cộng đồng chung vận mệnh” cũng là một hành vi thuận theo tự nhiên. Mọi sự can thiệp của các quốc gia bên ngoài vào mối quan hệ giữa Trung Quốc với các đối tác trong “Cộng đồng chung vận mệnh” đều là trái với lẽ tự nhiên và phản ứng chính sách của Trung Quốc là đúng đắn. Ngoài ra, Trung Quốc sẽ có sự mềm dẻo, linh hoạt trong tiếp cận và triển khai xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh” cho từng đối tượng cụ thể.

Như vậy, văn hóa - tư tưởng truyền thống Trung Quốc có ảnh hưởng đến “Cộng đồng chung vận mệnh” ở các phương diện khác nhau. Từ góc độ “Pháp trị”, chính sách này hướng đến loại bỏ “Trò chơi có tổng bằng không” trong quan hệ lợi ích, cũng như duy trì trạng thái vận hành của quan hệ quốc tế dựa trên luật pháp. Mặt “Nho giáo” của chính sách - tuy không xóa bỏ tính thứ bậc trong quan hệ quốc tế - nhưng chủ trương nếu các quốc gia thực hiện đúng nghĩa vụ, thế giới sẽ là “Cộng đồng chung vận mệnh”. Thực chất những điều này nhằm xóa bỏ tâm lý “bài Trung”, tạo thuận lợi để Trung Quốc triển khai “Cộng đồng chung vận mệnh”. Trong khi đó, lý thuyết “Thiên hạ” lại là động lực tinh thần cho mục tiêu chiến lược “Cộng đồng chung vận mệnh” - thiết lập trật tự khu vực và xa hơn là trật tự thế giới theo cách có lợi cho Trung Quốc.

2.3. Cng đng chung vn mnh tham chiếu, tham kho ni dung mt s lý thuyết quan h quc tế

S tham kho lý thuyết ch nghĩa hin thc

Chủ nghĩa hiện thực là một lý thuyết có lịch sử lâu đời và ảnh hưởng lớn đến quan hệ quốc tế hiện đại, với những học giả tiêu biểu như Thucydides, Machiavelli, và đặc biệt là Hans Morgenthau (1904-1980) - người có vai trò quan trọng trong việc đưa chủ nghĩa hiện thực thành một lý thuyết thực sự. Nội dung chính của chủ nghĩa hiện thực gồm: (i) Quốc gia là chủ thể duy nhất tham gia vào quan hệ quốc tế với mục đích cơ bản là gia tăng quyền lực; (ii) Môi trường quốc tế luôn ở trạng thái vô chính phủ, xung đột là bản chất của quan hệ quốc tế và quyền lực là nguyên nhân của xung đột; (iii) Xung đột và chiến tranh có thể được hạn chế bằng việc thiết lập bằng cân bằng quyền lực; (iv) Trật tự thế giới có thể được xây dựng theo nhiều mô hình khác nhau.

Trên cơ sở coi quyền lực là yếu tố cơ bản, vừa là động lực cho chính sách đối ngoại, vừa có khả năng tác động đến hành vi quốc gia trong quan hệ quốc tế, lý thuyết hiện thực cung cấp cho mỗi quốc gia những nhận định về sự bất ổn của môi trường quốc tế do cạnh tranh quyền lực tạo ra.

Để ứng phó với trạng thái này, quốc gia phải tìm cách gia tăng quyền lực nhằm bảo đảm lợi ích an ninh trong hệ thống quốc tế. Lý thuyết này cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải thiết lập trạng thái cân bằng quyền lực nhằm ngăn ngừa xung đột và chiến tranh trong quan hệ quốc tế. Ngoài ra, chủ nghĩa hiện thực còn củng cố nhận thức cho các nhà hoạch định chính sách đối ngoại về một môi trường quốc tế có thể thiết lập theo nhiều mô hình khác nhau - và do đó - quốc gia có thể thực hiện hành vi tìm kiếm cơ hội về quyền lực và lợi ích trong quan hệ quốc tế thông qua những phương cách khác nhau mà không cần đến xung đột và chiến tranh.

Từ góc độ tham khảo chủ nghĩa hiện thực, các nhà hoạch định chính sách đối ngoại Trung Quốc cho rằng thế giới bất ổn bởi tư tưởng bá quyền và mô hình lợi ích “tổng bằng không”. Hiện nay, “tư tưởng nước mạnh phải tìm kiếm quyền bá chủ, ủng hộ sức mạnh và trò chơi tổng bằng không ngày càng không phù hợp với định hướng của thời đại”(5), phải thiết lập mô hình quan hệ quốc tế mới không hướng tới gia tăng quyền lực cho bất kỳ quốc gia nào, mà tăng cường quyền lực tập thể của cộng đồng.

Chính quyền lực tập thể cộng đồng sẽ kiềm chế sự gia tăng quyền lực quốc gia theo nguyên tắc: “Vận mệnh của thế giới phải do tất cả các quốc gia cùng kiểm soát, các quy tắc quốc tế phải do tất cả các quốc gia viết ra, các vấn đề toàn cầu phải do tất cả các quốc gia quản lý và các kết quả phát triển phải được chia sẻ bởi tất cả các quốc gia”(6), khi đó “tương lai và vận mệnh của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với nhau…, cùng chung sống hài hòa và hợp tác cùng có lợi”(7).

S tham kho lý thuyết ch nghĩa t do

Chủ nghĩa tự do là một lý thuyết có ảnh hưởng sâu rộng trong khoa học quan hệ quốc tế. Những ý tưởng tự do xuất hiện từ thời cận đại trong bối cảnh “đêm trước” của các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu. Nhu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và tự do cạnh tranh giữa các quốc gia tư sản là cơ sở kinh tế và chính trị cho trường phái lý thuyết này. Những nhà tư tưởng tiêu biểu của chủ nghĩa tư do, có thể kể đến như Immanuel Kant (1724-1804), Jeremy Bentham (1748-1832), T.W.Wilson (1856-1924) và R.O.Keohan (người đề xướng chủ nghĩa tự do mới). Những luận điểm chính của chủ nghĩa tự do, bao gồm: (i) Quan hệ quốc tế luôn đa dạng về chủ thể, lĩnh vực, lợi ích và chịu tác động đáng kể của yếu tố đối nội; (ii) Hợp tác là xu thế chính trong quan hệ quốc tế; (iii) Đề cao vai trò của thể chế quốc tế và an ninh tập thể trong quản trị môi trường toàn cầu.

Những luận điểm chính của chủ nghĩa tự do có tác động lớn đến tư duy của các nhà hoạch định chính sách đối ngoại. Trên cơ sở nhìn nhận hợp tác là phương thức cơ bản để đạt được mục tiêu an ninh và phát triển, đa số các quốc gia đều coi việc tăng cường hội nhập quốc tế, thúc đẩy hợp tác đa phương là định hướng lớn của chính sách đối ngoại. Về mặt số lượng, thế giới hiện nay bao gồm một phần nhỏ các cường quốc và đa số còn lại là các nước đang phát triển, dẫn đến luôn tồn tại mô hình hợp tác bất cân xứng trong quan hệ quốc tế, nên thể chế và luật pháp được đa số quốc gia đặt lên hàng đầu, coi đó là nền tảng cho việc bảo đảm lợi ích. Việc các quốc gia phải tham gia vào các cơ chế an ninh tập thể là tất yếu trong bối cảnh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng gia tăng và xuất hiện ngày càng nhiều hơn những vấn đề an ninh đa diện (đặc biệt là an ninh phi truyền thống) do phát triển kinh tế tự do gây ra.

Trong sang kiến “Cộng đồng chung vận mệnh”, sự tham chiếu, tham khảo chủ nghĩa tự do đậm nét hơn so với chủ nghĩa hiện thực. Mô hình “Cộng đồng chung vận mệnh” có nhiều điểm tương đồng với mô hình “Cộng đồng quốc tế” của Kant, khi đặt lợi ích cộng đồng cao hơn lợi ích quốc gia, coi hợp tác là xu thế chính và đề cao vai trò của luật pháp trong quan hệ quốc tế. Nó cũng khá gần với mô hình “mạng nhện” - được đề xuất bởi những người theo chủ nghĩa tự do mới - rằng các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau trên nhiều lĩnh vực, sự thay đổi của chủ thể này sẽ ảnh hưởng đến chủ thể khác hoặc ảnh hưởng đến cả hệ thống. Với chủ nghĩa tự do, “lợi ích tuyệt đối quan trọng hơn lợi ích tương đối”(8). Điều này đã được diễn giải rõ hơn trong “Cộng đồng chung vận mệnh” - “Chỉ khi vận mệnh chung của nhân loại được đảm bảo thì những hy vọng cao đẹp của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi người mới thành hiện thực”(9).

Tham chiếu, tham kho lý thuyết ch nghĩa kiến to

Chủ nghĩa kiến tạo là một lý thuyết mới, ra đời từ những năm 1950 và trở nên phổ biến kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Mặc dù có nguồn gốc từ triết học và xã hội học, chủ nghĩa kiến tạo với nhiều kiến giải độc đáo, đã được vận dụng trong nghiên cứu quan hệ quốc tế với các học giả tiêu biểu như Nicolas Onuf, Alexander Wendt, Martha Finnemore và Peter Katzenstein.

Lý thuyết kiến tạo cho rằng, cấu trúc của môi trường quốc tế được kiến tạo và diễn giải bởi nhận thức của mỗi cá nhân hoặc từng quốc gia, và bản sắc của một quốc gia mới là yếu tố tạo nên lợi ích cũng như chi phối hành vi quốc gia trong quan hệ quốc tế. Theo chủ nghĩa kiến tạo, một bản sắc chung là nền tảng cho sự ổn định của cộng đồng quốc tế. Vấn đề quyền lực dưới góc nhìn chủ nghĩa kiến tạo cũng đa dạng hơn so với chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do, bao gồm cả các yếu tố vật chất và phi vật chất, trong đó quyền lực phi vật chất có vai trò lớn hơn.

Những luận điểm của chủ nghĩa kiến tạo có ảnh hưởng đến tư duy hoạch định chính sách đối ngoại của các quốc gia từ sau Chiến tranh lạnh đến nay. Theo lý thuyết kiến tạo, quốc gia xác định lợi ích bằng cách diễn giải bối cảnh xã hội họ tham gia. Nhận thức về bối cảnh quốc tế như thế nào sẽ quy định nên lợi ích quốc gia tương ứng như thế.

Với ý niệm quan hệ quốc tế được tạo nên bởi hành vi của các quốc gia (và/hoặc hành vi cá nhân), trong khi hành vi đó bị chi phối bởi bản sắc quốc gia, các nhà hoạch định chính sách đối ngoại coi bản sắc quốc gia là yếu tố quyết định các mục tiêu của chính sách đối ngoại. Bản sắc này là một phức hợp các yếu tố phi vật chất, và do đó, mỗi quốc gia - trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại - phải xem xét đến các yếu tố này. Chủ nghĩa kiến tạo cũng chỉ ra mô hình quan hệ quốc tế mà các quốc gia cần hướng tới - mô hình cộng đồng có bản sắc chung, được hình thành thông qua quá trình tương tác giữa các chủ thể và tồn tại trên cơ sở các chủ thể tôn trọng nguyên tắc và chuẩn mực chung.

Từ tham chiếu, tham khảo luận điểm về “bản sắc” của chủ nghĩa kiến tạo, “Cộng đồng chung vận mệnh” hình thành nhằm định nghĩa lại bản sắc của Trung Quốc - chuyển từ một quốc gia đứng ngoài trở thành một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng, “luôn thống nhất sự phát triển của mình với sự phát triển của thế giới, luôn kết hợp lợi ích của người dân Trung Quốc với lợi ích chung của nhân dân các nước”(10). Trung Quốc sẽ tạo lập “sân chơi”, “luật chơi” mới phù hợp với bản sắc của mình, không chấp nhận luật chơi do các nước đi trước đặt ra. Mô hình “Cộng đồng chung vận mệnh” sẽ là mô hình theo bản sắc Trung Quốc. Điều này thể hiện rõ trong tuyên bố: “chỉ khi thế giới tốt thì Trung Quốc mới tốt” và “chỉ khi Trung Quốc tốt thì thế giới mới tốt hơn”(11). Luận điểm về “bản sắc chung” là gợi ý để Trung Quốc đề xuất các nguyên tắc và chuẩn mực mới của quan hệ quốc tế, bao gồm 05 đặc điểm mới trong quản trị toàn cầu, bố cục tổng thể “năm trong một” và “mục tiêu năm thế giới” của “Cộng đồng chung vận mệnh”.

3. Kết lun

Khái niệm “Cộng đồng chung vận mệnh” không phải là một phát kiến hoàn toàn mới, mà là kết tinh của nhiều lớp tư tưởng, từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông đến các giá trị truyền thống Trung Hoa và tham chiếu, tham khảo lý thuyết quan hệ quốc tế hiện đại. Việc vận dụng linh hoạt các nền tảng tư tưởng này thể hiện tham vọng định hình một mô hình trật tự quốc tế mới phù hợp với lợi ích và bản sắc của Trung Quốc. Tuy nhiên, phía sau thông điệp hợp tác và cùng phát triển là một cấu trúc tư duy “trung tâm - vệ tinh”, đòi hỏi các quốc gia cần xây dựng đối sách phù hợp, bảo đảm lợi ích và độc lập chiến lược của mình.

_________________

Ngày nhn bài: 25-7-2025; Ngày bình duyt: 29-10-2015; Ngày quyết đnh đăng: 31-10-2025. Email tác gi: hoquocphu@gmail,com

(1), (2) Mạng lưới đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc: Điu l Đng Cng sn Trung Quc, https://www.12371.cn/special/zggcdzc/zggcdzcqw/

(3), (5), (6), (7), (9), (10), (11) China Government Network: Cùng nhau xây dng cng đng chung tương lai cho nhân loi: Sáng kiến và hành đng ca Trung Quc, 2023, https://www.gov.cn/zhengce/202309/content_6906335.htm

(4) Vương Huệ: Nm bt sâu sc h thng khoa hc ca ý tưng xây dng mt cng đng chung tương lai cho nhân loi, 2024, https://www.rmlt.com.cn/2024/0304/696553.shtml

(8) Hoàng Khắc Nam: Lý thuyết quan h quc tế, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2017, tr. 71.