Diễn đàn

Bước phát triển về quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945

08/11/2025 10:54

(LLCT) - Kế thừa và phát huy những tư tưởng nhân văn tiến bộ trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hoa Kỳ (năm 1776) và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của nước Pháp (năm 1789), trong quá trình viết bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng quyền dân tộc lên tầm quốc tế, trở thành quyền của tất cả các dân tộc trên thế giới. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1945 vì thế mà mang tầm nhân loại phổ quát, cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Bài viết khái quát giá trị về quyền con người, quyền dân tộc trong các bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, từ đó phân tích bước phát triển về quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945.

ThS VƯƠNG THỊ LIÊN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc ta_Ảnh tư liệu.
Ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc ta_Ảnh tư liệu.

1. Mở đầu

Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, sự ra đời của những bản tuyên ngôn mang tầm vóc thời đại đã đánh dấu những bước ngoặt lớn trong nhận thức của loài người về quyền con người và quyền dân tộc. Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cộng hòa Pháp năm 1789 không chỉ là những văn kiện chính trị trọng đại mà còn là bản tuyên cáo đanh thép khẳng định quyền tự nhiên, thiêng liêng, bất khả xâm phạm của con người - đó là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Những tư tưởng tiến bộ này đã đặt nền móng cho chủ quyền nhân dân và tư tưởng dân chủ, dẫn đến thắng lợi của các phong trào cách mạng dân chủ tư sản trên toàn cầu.

Tuy nhiên, xét trong bối cảnh lịch sử của mình, hai văn kiện tiêu biểu đó vẫn tồn tại những giới hạn nhất định. Tuyên ngôn của Hoa Kỳ và Pháp dù vang vọng tinh thần nhân văn tiến bộ, vẫn chủ yếu dừng lại ở việc khẳng định quyền tự do cá nhân trên bình diện lý tưởng, hoặc chỉ hướng đến cộng đồng người da trắng tại chính quốc mà chưa đề cập thân phận của hàng trăm triệu người dân ở các nước thuộc địa đang khao khát độc lập, tự do. Chính sự đối lập giữa lý tưởng nhân quyền cao cả và thực tiễn áp bức thuộc địa tàn bạo đã bộc lộ mâu thuẫn sâu sắc của thời đại tư sản, đặt ra yêu cầu lịch sử phải có những cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nhằm hiện thực hóa trọn vẹn các giá trị nhân văn mà nhân loại hằng khát vọng.

Chính trong bối cảnh đó, Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc ngày 2 tháng 9 năm 1945 không chỉ là lời tuyên bố về chủ quyền quốc gia, mà đã trở thành một cột mốc chói lọi trong tiến trình phát triển tư tưởng nhân loại về quyền dân tộc. Bằng việc mở đầu với những “lời bất hủ” trong các Tuyên ngôn của Hoa Kỳ và Pháp, bản Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh soạn thảo đã thể hiện sự kế thừa có chọn lọc tinh hoa tư tưởng nhân loại, đồng thời vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ đó, Người đã vượt qua giới hạn lịch sử của các bản tuyên ngôn tư sản, nâng quyền con người lên tầm quyền dân tộc, mở rộng giá trị nhân quyền từ phạm vi cá nhân sang phạm vi cộng đồng dân tộc bị áp bức. Với câu nói bất hủ: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý mang giá trị phổ quát và bền vững - chân lý về quyền độc lập, tự do thiêng liêng của mọi dân tộc trên trái đất.

Vì vậy, việc nghiên cứu sự phát triển về quyền dân tộc qua ba bản Tuyên ngôn tiêu biểu: từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp đến Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ giúp chúng ta thấy rõ sự kế thừa các giá trị tiến bộ của nhân loại mà còn làm nổi bật sự sáng tạo và đóng góp mang tầm vóc thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cách mạng Việt Nam.

2. Nội dung

2.1. Giá trị về quyền bình đẳng, quyền độc lập của các dân tộc trong Tuyên ngôn của Hoa Kỳ và nước Pháp

Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ - tinh thần nhân văn từ triết học Khai sáng

Sau khi Columbus tìm ra châu Mỹ, nhiều nước châu Âu đã chiếm đóng lục địa mới này làm thuộc địa. Từ đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, thực dân Anh đã thành lập 13 thuộc địa ở Bắc Mỹ, tìm mọi cách ngăn cản sự phát triển công, thương nghiệp ở thuộc địa, như cướp đoạt tài nguyên, đánh thuế nặng, độc quyền buôn bán. Các tầng lớp nhân dân như tư sản, chủ đồn điền, công nhân, nô lệ đều đấu tranh chống ách thống trị của thực dân Anh.

Trải qua quá trình đấu tranh lâu dài, quyết liệt, ngày 4-7-1776, Tuyên ngôn Độc lập được công bố, xác định quyền con người và quyền độc lập của các thuộc địa. Đây là văn bản chính trị tuyên bố 13 thuộc địa Bắc Mỹ chính thức ly khai khỏi Anh Quốc, hình thành quốc gia độc lập. Bản Tuyên ngôn do Thomas Jefferson soạn thảo chính, ghi dấu ảnh hưởng của triết học Khai sáng với đại diện là triết gia người Anh ở thế kỷ 16, John Locke. Theo John Locke, ba quyền cơ bản không thể bị tước đoạt của con người là quyền được sống, quyền tự do và quyền sở hữu. Quyền sở hữu được Jefferson cụ thể hóa trong Tuyên ngôn 1776 là “quyền mưu cầu hạnh phúc”. Một số tư tưởng quan trọng của John Locke, như nguyên lý về sự bình đẳng giữa các cá nhân, khái niệm nhà nước giới hạn quyền lực, quyền của nhân dân được thay đổi hoặc lật đổ chính quyền khi chính quyền bất công hoặc không còn phản ánh ý chí chung, đã được Thomas Jefferson vận dụng trong bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ 1776.

Vị thế độc lập và bình đẳng giữa các dân tộc được khẳng định ngay từ câu đầu tiên trong Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ: “Trong tiến trình phát triển của nhân loại, khi một dân tộc nào đó cần thiết phải xóa bỏ những mối liên kết chính trị giữa họ với một dân tộc khác và khẳng định trước các lực lượng trên toàn trái đất vị thế độc lập và bình đẳng mà các quy luật của tự nhiên và thượng đế đã ban cho họ, thì sự tôn trọng đầy đủ đối với các quan điểm của nhân loại đòi hỏi họ phải tuyên bố những nguyên do dẫn họ đến sự ly khai đó”(1). Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ đã tuyên bố đanh thép về sự ngang hàng, bình đẳng của các dân tộc thuộc địa. Vấn đề quyền dân tộc này thực chất đã được đề cập trong triết học Khai sáng, trong đó, quan niệm về quyền bình đẳng dân tộc tập trung vào việc khẳng định mọi người, bất kể nguồn gốc dân tộc, đều có những quyền cơ bản và phẩm giá như nhau. Tư tưởng này là bước tiến so với chế độ phong kiến phân biệt đẳng cấp, lên án các hình thức áp bức dân tộc, đề cao tự do, bình đẳng và bác ái.

Nội dung Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ đã lên tiếng bảo vệ quyền bình đẳng, tự quyết và độc lập của các dân tộc bị phụ thuộc và chi phối bởi một dân tộc khác. Bản Tuyên ngôn đã khẳng định quyền tất yếu và bất khả xâm phạm: “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”(2). Từ đó, Tuyên ngôn khẳng định, chính quyền được lập ra từ nhân dân, nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới.

Có thể nói, Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 là bản tuyên ngôn nhân văn và tiến bộ, xét trong tổng thể tuyên ngôn độc lập của các quốc gia khác trên thế giới. Đây cũng là nguồn cảm hứng mạnh mẽ đến Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, Tuyên ngôn 1789 của Bỉ và cũng là hình mẫu cho nhiều tuyên bố độc lập của các nước trên thế giới trong nửa đầu thế kỷ XIX.

Giá trị Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp

Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền là văn bản nền tảng của Cách mạng Pháp 1789, do Quốc hội lập hiến của chính quyền mới triệu tập thông qua vào ngày 26-8-1789. Bản tuyên ngôn nhanh chóng trở thành nền tảng của cuộc Cách mạng Pháp, được trích dẫn, sử dụng làm lời mở đầu cho Hiến pháp cách mạng Pháp năm 1791. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 khẳng định, các quyền cá nhân và quyền tập thể của tất cả các giai cấp là bình đẳng. Chịu ảnh hưởng bởi học thuyết các quyền tự nhiên, bản Tuyên ngôn năm 1789 khẳng định, các quyền con người là bình đẳng, có giá trị tại mọi thời điểm và tại mọi không gian, gắn với bản chất con người.

Cuộc Cách mạng năm 1789 ở Pháp là cuộc cách mạng tư sản có tính điển hình châu Âu, xóa bỏ chế độ phong kiến và xây dựng một chính quyền mới - chính quyền của giai cấp tư sản, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển không chỉ ở Pháp mà còn nhiều nước châu Âu khác. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền gồm 17 điều, đã khẳng định rõ các quyền con người và quyền công dân - vốn là tiền đề cho quyền dân tộc: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Sự phân biệt xã hội chỉ được phép hình thành trên cơ sở đem lại lợi ích chung cho cả cộng đồng. Mục đích của tất cả các tổ chức chính trị là bảo vệ các quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm của con người. Những quyền này là tự do, sở hữu tài sản, an ninh và chống lại sự áp bức. Các nguyên tắc chủ quyền có nguồn gốc từ quốc gia. Không một tổ chức hoặc cá nhân nào có thể thực hiện quyền mà không xuất phát từ nguyên tắc đó”(3).

Cũng như Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp lấy tư tưởng triết học của Locke làm nền tảng. Locke quan niệm, mọi người đều có quyền “sống, tự do, sở hữu tài sản” và quyền có tài sản bắt nguồn từ lao động.

Bản Tuyên ngôn của Pháp có ảnh hưởng lớn đến phong trào của nhân dân các nước đấu tranh chống chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Tuy nhiên, lịch sử cũng đã chỉ rõ, khi đã trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp tư sản không thực hiện một cách nghiêm túc các quyền đã được bản tuyên ngôn lịch sử của Cách mạng Pháp năm 1789 long trọng tuyên bố, và trên thực tế, đã có không ít trường hợp giai cấp tư sản Pháp đã phản bội lại lá cờ nhân đạo, chính nghĩa của cha ông họ khi chà đạp lên các quyền thiêng liêng của con người qua việc ra sức thi hành chính sách bóc lột nhân dân lao động nước mình và xâm lược, bóc lột các dân tộc khác.

2.2. Bước phát triển mang tính cách mạng về quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945

Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và công bố trước toàn thể quốc dân đồng bào vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, không chỉ là một văn kiện lịch sử quan trọng, mà còn chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc, đặc biệt là tinh thần bình đẳng giữa các dân tộc. Tinh thần này thể hiện rõ ràng qua các lý tưởng về quyền con người và sự tự do.

Ngay trong phần Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, tuyên bố quyền độc lập dân tộc của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”(4). Từ quyền con người trong Tuyên ngôn của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh đã mở rộng ra thành quyền dân tộc, bởi xét cho cùng thì dân tộc là sự gắn kết của cộng đồng người, quyền con người vì vậy cũng chính là quyền dân tộc. “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(5).

Luận điểm này khẳng định một chân lý có giá trị phổ quát: Mọi dân tộc trên thế giới đều bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo, trình độ văn hóa hay địa lý. Đây là quan điểm mang tính cách mạng sâu sắc, thể hiện tinh thần nhân văn và ý thức tôn trọng con người, đồng thời bác bỏ mọi hình thức áp bức, phân biệt chủng tộc, kỳ thị dân tộc. Với tầm vóc đó, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mang ý nghĩa phổ quát hơn, quốc tế hơn, góp phần thức tỉnh, cổ vũ và tiếp sức cho phong trào đấu tranh giành độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn trích dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Người khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”(6). Đồng thời, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam cũng nhấn mạnh, quyền bình đẳng là quyền lợi chính đáng của tất cả các dân tộc, bất kể dân tộc đó là đế quốc hay các dân tộc thuộc địa.

Thực chất các bản tuyên ngôn của Hoa Kỳ và Pháp ra đời trong bối cảnh cách mạng tư sản, nên về nội dung vẫn mang dấu ấn giai cấp sâu sắc, các tuyên ngôn ấy chủ yếu phục vụ quyền lợi của giai cấp tư sản và tầng lớp thống trị mới, chứ chưa hướng tới đại đa số quần chúng nhân dân lao động. Sự thật là, Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp không đề cập đến việc xóa bỏ chế độ nô lệ, không đụng chạm tới sự bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cũng như phớt lờ quyền bình đẳng của phụ nữ và các cộng đồng dân tộc thiểu số. Trên thực tế, cách mạng tư sản tuy lật đổ ách thống trị phong kiến, nhưng lại thiết lập một chế độ thống trị mới, trong đó lợi ích của giai cấp tư sản được đặt lên trên hết, còn nhân dân lao động vẫn bị tước đoạt quyền làm chủ và quyền hưởng hạnh phúc thực sự.

Vượt lên quan niệm hạn hẹp về quyền dân tộc vốn chỉ phục vụ lợi ích của một số quốc gia tư sản, Hồ Chí Minh đã nâng cấp, khái quát lên thành quyền dân tộc cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là minh chứng hùng hồn cho tầm nhìn chiến lược và tư duy nhân văn sâu sắc của Người về vấn đề quyền dân tộc. Đó không phải là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hay vị kỷ, mà là sự khẳng định quyền thiêng liêng, chính đáng của mọi dân tộc, không phân biệt chủng tộc, sắc tộc, màu da hay vị thế quốc gia. Tư tưởng của Người đã khai sáng một hướng đi mới cho lịch sử nhân loại, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên giành lại độc lập dân tộc và quyền tự do của con người, đồng thời góp phần định hình trật tự công bằng và nhân văn hơn cho thế giới hiện đại.

Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam - Bản cáo trạng góp phần chấm dứt chủ nghĩa thực dân

Lịch sử thế giới cho thấy, đến đầu thế kỷ XX, các đế quốc thực dân về cơ bản đã chiếm đóng hầu hết các quốc gia có tài nguyên thiên nhiên phong phú và tiềm năng phát triển trên thế giới để làm giàu cho “mẫu quốc”. Với chiêu bài “bảo hộ”, “khai sáng”, các đế quốc thực dân đã sử dụng quân đội, vũ khí và kinh tế để chiếm đóng, đô hộ và cướp đoạt tài nguyên, buộc các quốc gia khác trở thành thuộc địa. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã đưa ra các bằng chứng cụ thể, vạch trần bộ mặt tàn bạo, độc ác của thực dân Pháp: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu, cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Về kinh tế - Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”(7).

Với những chứng cứ hùng hồn, xác thực, Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã lột trần sự giả dối của chế độ thực dân dưới chiêu bài “bảo hộ”, “khai sáng”, phủ nhận cường quyền nước lớn, đồng thời thức tỉnh các dân tộc thuộc địa. Tuyên ngôn Độc lập đã góp phần làm lung lay hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, thúc đẩy quá trình phi thực dân hóa diễn ra mạnh mẽ sau Chiến tranh thế giới thứ II.

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 - Bản hùng ca thức tỉnh và cổ vũ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam được khẳng định hùng hồn trong Tuyên ngôn Độc lập đã tạo động lực,thắp lên niềm tin, ý chí quật khởi cho các dân tộc thuộc địa ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh đứng lên giành lại quyền sống, quyền làm chủ của mình. Kỳ tích của một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường đã chiến thắng ba tầng áp bức thực dân, phát xít và phong kiến, được Hồ Chí Minh khẳng định bằng những lời bất hủ: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(8).

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, với những tuyên bố đanh thép về quyền con người và quyền dân tộc, đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Sự kiện Việt Nam giành được độc lập sau hơn tám thập kỷ chịu ách thống trị của thực dân Pháp là minh chứng hùng hồn cho chân lý: mọi dân tộc bị áp bức đều có thể vùng lên tự giải phóng mình, giành lại quyền sống và quyền tự do thiêng liêng.

Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam khẳng định con đường giành độc lập dân tộc

Nếu các Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp coi quyền dân tộc, quyền con người là tự nhiên, do Thượng đế ban tặng, ít nhiều mang màu sắc thần học của triết học thời kỳ Khai sáng với trọng tâm là niềm tin và lòng mộ đạo, thì Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam coi quyền độc lập dân tộc là do nhân dân thuộc địa dùng cả tính mạng, tài sản để giành lại và gìn giữ. Do sự khác biệt đó, các nước đế quốc đi theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bá quyền, tự cho mình quyền định đoạt số phận của các dân tộc mà theo họ là lạc hậu, cần được “khai sáng”. Lý tưởng bình đẳng và tự do mà chính họ khởi xướng lại trở thành đặc quyền của “mẫu quốc”.

Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã chỉ ra nghịch lý này và khẳng định, quyền độc lập dân tộc với các nước thuộc địa không phải tự nhiên mà có, các dân tộc bị áp bức chỉ có thể đánh đổi bằng xương máu, hy sinh: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(9). Với các dân tộc thuộc địa, chỉ có thể giành độc lập bằng con đường đấu tranh vũ trang, “Dùng bạo lực cách mạng đập tan bạo lực phản cách mạng” như Lênin chỉ ra. Đây cũng là con đường mà dân tộc ta đã chọn.

3. Kết luận

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ là một văn kiện lịch sử quan trọng của Việt Nam mà còn là nguồn cảm hứng và động lực to lớn cho phong trào cách mạng thế giới, góp phần vào sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân và sự ra đời của một trật tự thế giới mới, dựa trên sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia. Tiếp nối, kế thừa những tư tưởng nhân văn tiến bộ về quyền dân tộc mà cụ thể là quyền bình đẳng, quyền tự quyết và quyền độc lập tại hai bản Tuyên ngôn vĩ đại của lịch sử nhân loại là Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng quyền dân tộc lên tầm quốc tế. Không còn là quyền dân tộc hạn hẹp, chỉ dành cho các đế quốc, quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Việt Nam là quyền của tất cả các dân tộc trên thế giới, không phân biệt màu da, tôn giáo hay địa vị. Hơn nữa, Hồ Chí Minh đã khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 rằng, với các dân tộc thuộc địa bị chà đạp, tước đoạt quyền con người, quyền dân tộc, thì cách thức duy nhất để đòi lại quyền thiêng liêng của con người là sử dụng bạo lực cách mạng.

Hồ Chí Minh đã đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề quyền dân tộc. Đây là điểm khác biệt giữa Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 so với các bản Tuyên ngôn trước đó, vốn đứng trên lập trường của giai cấp tư sản nhằm bảo vệ quyền lợi cho tầng lớp thống trị. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 vì thế mà mang tầm nhân loại phổ quát, là tiếng nói đấu tranh chính nghĩa cho các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là văn kiện lịch sử có giá trị vượt tầm thời đại, góp phần đập tan chủ nghĩa dân tộc thượng đẳng, đồng thời khẳng định giá trị, bản sắc của mỗi quốc gia - dân tộc trên bản đồ thế giới. Đó là chân lý, là lẽ phải, là nền tảng tư tưởng vững chắc của một thế giới hoà bình, đoàn kết và thịnh vượng trong tương lai. Tư tưởng được kết tinh trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là chân lý của thời đại, là lẽ phải của nhân loại tiến bộ, đồng thời là nền tảng tư tưởng vững chắc cho một thế giới hòa bình, đoàn kết và thịnh vượng. Từ Việt Nam, thông điệp ấy vang vọng khắp năm châu, trở thành nguồn sức mạnh tinh thần to lớn, khơi dậy niềm tin vào công lý, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, góp phần định hình một trật tự thế giới nhân đạo và công bằng hơn cho tương lai loài người.

_________________

Email tác giả: lienvuong1977@gmail.com

(1), (2) Toàn văn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, https://trithucvn2.net/, truy cập ngày 02-8-2025.

(3) Toàn văn Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, https://www.scribd.com/, truy cập ngày 02-8-2025.

(4), (5), (6), (7), (8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.1, 1, 1, 2, 3, 3.