Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
(LLCT) -Bài viết phân tích bản chất dân chủ, tiến bộ, văn minh của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, từ đó khẳng định tính đúng đắn, phù hợp quy luật của mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng.
PGS, TS NGUYỄN TẤT ĐẠT
Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Mở đầu
Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân không chỉ là định hướng chiến lược, mà còn thể hiện sự hoàn thiện về thể chế văn hóa, chính trị. Nhà nước pháp quyền của dân là nhà nước đặt nền tảng chính danh trên quyền lực nhân dân, được thiết lập thông qua cơ chế bầu cử dân chủ, phản ánh ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp xã hội. Điều 2, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”(1). Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mục tiêu cao nhất là xây dựng chủ nghĩa xã hội, thiết lập một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó nhân dân giữ vai trò chủ thể quyền lực. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không đại diện cho lợi ích của số ít giai cấp thống trị, mà là của đại đa số nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời là nhà nước của toàn thể nhân dân Việt Nam và của toàn dân tộc, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Cách thức tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước trong Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới so với các bản hiến pháp trước. Đó là nguyên tắc: “bảo đảm thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan”(2). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới khẳng định rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân”(3).
Do đó, việc phân tích và luận giải bản chất “của dân, do dân, vì dân” của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ có ý nghĩa lý luận quan trọng mà là yêu cầu cấp thiết nhằm củng cố tính chính danh và nâng cao hiệu quả tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước hiện nay
2. Nội dung
Bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là:
Một là, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh: “Mọi quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”(4). Đây là một trong những đặc trưng cốt lõi làm nên bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện ở tính nhân dân sâu sắc và toàn diện. Đặc trưng này thể hiện rõ nguyên lý nền tảng: quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, thuộc về nhân dân và nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Nhà nước Việt Nam không đại diện cho một nhóm lợi ích hay một giai cấp cầm quyền riêng biệt, mà là công cụ tổ chức quyền lực chính trị của toàn thể nhân dân, được thể hiện thông qua chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và được bảo đảm bằng pháp luật. Bản chất nhân dân của Nhà nước còn được cụ thể hóa qua cơ chế bầu cử phổ thông đầu phiếu, qua hoạt động của Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và việc mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp trong quản lý nhà nước và đời sống xã hội.
Đồng thời, Nhà nước có trách nhiệm hiến định trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân - qua đó khẳng định nhân dân không chỉ là chủ thể quyền lực mà còn là đối tượng được phục vụ và bảo hộ bởi Nhà nước. Như vậy, tính nhân dân của Nhà nước Việt Nam không chỉ là một nguyên tắc chính trị, mà còn là một thực tiễn pháp lý và quản trị quốc gia được thể chế hóa chặt chẽ, phù hợp với định hướng phát triển nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, cần xác định rõ nội hàm của khái niệm nhân dân. Nhân dân, với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được hiểu là: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”(5). Ba yếu tố “của nhân dân”, “do nhân dân” và “vì nhân dân” cấu thành một chỉnh thể thống nhất, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể quyền lực, cách thức thực hiện quyền lực và mục tiêu hướng đến trong quá trình tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước.
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, có nghĩa nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Mọi quyền lực nhà nước đều có nguồn gốc từ nhân dân, được nhân dân ủy thác thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Điều này thể hiện rõ qua nguyên tắc “mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân”(6). Quyền lực ấy được thực hiện một cách gián tiếp thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, đồng thời được thực hiện trực tiếp thông qua các hình thức dân chủ tại cơ sở như trưng cầu ý dân, giám sát cộng đồng, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do nhân dân. Khác với các nhà nước nô lệ, phong kiến, tư sản - vốn do giai cấp đại diện cho chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thiết lập để phục vụ lợi ích giai cấp thống trị, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân lập nên, dựa trên ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, do nhân dân tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước. Nhân dân sử dụng quyền bầu cử và ứng cử của mình để thành lập nên các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương. Thông qua lá phiếu, nhân dân lựa chọn những đại biểu có đủ đức, đủ tài, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của mình. Việc phân định rõ các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong khuôn khổ quyền lực thống nhất, đồng thời có cơ chế kiểm soát, phối hợp lẫn nhau cũng là biểu hiện của việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc dân chủ và pháp quyền.
Thứ ba, Nhà nước vì nhân dân, tức là mọi hoạt động của bộ máy nhà nước đều hướng tới mục tiêu phục vụ nhân dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, thúc đẩy công bằng và tiến bộ xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phục vụ lợi ích của một nhóm thiểu số đặc quyền, đặc lợi mà gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Điều này phù hợp với yêu cầu chính trị và đạo đức mang tính nguyên tắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”(7).
Trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân tiếp tục được khẳng định là nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc đổi mới. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII nhấn mạnh: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là xây dựng nhà nước phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết, bảo đảm quyền làm chủ thực chất của nhân dân”(8). Do đó, việc tiếp tục thể chế hóa các nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát quyền lực, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao chất lượng phục vụ của cơ quan công quyền… chính là những biểu hiện cụ thể của việc khẳng định và củng cố bản chất nhân dân của Nhà nước trong thực tiễn đổi mới và hội nhập quốc tế.
Hai là, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thượng tôn pháp luật.
Mọi tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật; pháp luật là cơ sở tối cao để điều hành đất nước. Mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật Việt Nam được áp dụng bình đẳng với mọi cá nhân, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Đây là nguyên lý quan trọng để xây dựng niềm tin công chúng vào công lý. “Không có thượng tôn pháp luật thì không thể có dân chủ thực chất và không có bảo đảm cho quyền con người”(9).
Trong lĩnh vực hành chính nhà nước, bản chất thượng tôn pháp luật được thể hiện rõ thông qua việc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính các cấp theo hướng pháp quyền, minh bạch, trách nhiệm và phục vụ. Với vai trò là công cụ trực tiếp tổ chức thực hiện pháp luật và đưa chính sách vào cuộc sống, các cơ quan hành chính nhà nước, từ trung ương đến địa phương, chịu trách nhiệm tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp luật trong quá trình ban hành, triển khai và giám sát hoạt động quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực. Điều này thể hiện rõ trong quá trình cải cách hành chính và xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, mà trọng tâm là giảm thủ tục rườm rà, nâng cao hiệu quả công vụ và bảo đảm tính minh bạch theo quy định pháp luật.
Một minh chứng rõ ràng là cơ chế một cửa, một cửa liên thông được triển khai rộng rãi theo Quyết định số 468 QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã mang lại hiệu quả tích cực, “80% người dân, doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hành chính không phải cung cấp lại các thông tin, giấy tờ, tài liệu đã được chấp nhận khi thực hiện thành công thủ tục hành chính (trước đó)”(10). Cơ chế này yêu cầu các cơ quan hành chính tiếp nhận, giải quyết và trả kết quả thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp theo tinh thần phục vụ vì dân, công khai thời gian, chi phí và trách nhiệm pháp lý. Việc số hóa các dịch vụ công và tích hợp lên Cổng dịch vụ công quốc gia giúp bảo đảm mọi hành vi hành chính đều có căn cứ pháp lý rõ ràng, dễ kiểm soát, truy vết và xử lý khi có sai phạm. Đây không chỉ là cải cách kỹ thuật, mà còn là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc thượng tôn pháp luật - khi quyền lực hành chính bị ràng buộc, minh bạch hóa và đặt dưới sự kiểm soát của luật pháp và công chúng.
Bên cạnh đó, hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát hành chính cũng ngày càng được tăng cường nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý những biểu hiện vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ. Việc xử lý sai phạm trong thi hành công vụ ở tất cả các cấp thể hiện thông điệp rõ ràng rằng, không một cá nhân hay tổ chức nào có thể đứng ngoài pháp luật - tinh thần cốt lõi của một nhà nước pháp quyền.
Đặc biệt, việc tăng cường trách nhiệm giải trình trong quản lý hành chính nhà nước được thể hiện qua Nghị định số 90/2020/NĐ-CP về đánh giá cán bộ, công chức, viên chức, trong đó nhấn mạnh tiêu chí về tuân thủ pháp luật, hiệu quả công tác và đạo đức công vụ. Cán bộ, công chức không chỉ được đánh giá thông qua kết quả hoàn thành nhiệm vụ, mà còn thông qua mức độ tuân thủ pháp luật, kỷ luật, kỷ cương hành chính và thái độ thực thi công vụ trong quá trình thực hiện chức trách được giao. “Việc đánh giá, xếp loại chất lượng phải căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ được giao và kết quả thực hiện nhiệm vụ, thể hiện thông qua công việc, sản phẩm cụ thể; đối với cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý phải gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao quản lý, phụ trách”(11). Quy định này là bước tiến trong việc chuyển từ mô hình quản lý hành chính mệnh lệnh sang mô hình hành chính công phục vụ, trên cơ sở luật pháp. Nguyên tắc thượng tôn pháp luật trong lĩnh vực hành chính nhà nước không dừng lại ở lý thuyết hay khẩu hiệu, mà đã và đang từng bước được thể chế hóa trong các quy trình hành chính cụ thể. Đó là minh chứng cho nỗ lực xây dựng một nền hành chính nhà nước hiện đại, minh bạch, hiệu quả, trong đó quyền lực hành chính chỉ được thực thi trong khuôn khổ pháp luật và vì lợi ích của nhân dân - đúng với bản chất “Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” trong mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ba là, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện ở mô hình tổ chức bộ máy theo nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
Về quyền lực nhà nước là thống nhất: quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên thể hiện ở sự thống nhất về mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của Nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một nhà nước “bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của Nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”(12). Như vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung ở nhân dân - chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Đây là quan niệm có ý nghĩa chỉ đạo tổ chức quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Về phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp: mặc dù có sự phân định ba quyền nhưng cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp không hoàn toàn tách biệt nhau, mà phối hợp với nhau, hoạt động một cách nhịp nhàng trên cơ sở làm đúng, làm đủ nhiệm vụ và quyền hạn mà nhân dân giao phó và được Hiến pháp quy định. Sự thống nhất của quyền lực nhà nước là nền tảng, sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Bốn là, bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện ở vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội
Không như các mô hình pháp quyền phương Tây, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng là lực lượng chính trị duy nhất có vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, bảo đảm định hướng chính trị - tư tưởng đúng đắn cho pháp luật và hoạt động nhà nước. “Tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(13). Trong mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố có tính quyết định, giữ vai trò định hướng chính trị, tư tưởng và tổ chức cho toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam – đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(14). Điều này cho thấy, Đảng không “đứng ngoài” hay “đứng trên” pháp luật, mà thực hiện vai trò lãnh đạo bằng phương pháp chính trị, tư tưởng và tổ chức, trên cơ sở pháp luật, vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Đặc biệt, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới nhấn mạnh vai trò trung tâm của Đảng trong việc bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa và tính thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Sự lãnh đạo của Đảng được thể chế hóa thông qua cơ chế tổ chức cán bộ. Đảng cũng luôn nhấn mạnh việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là đúng pháp luật, hiệu quả và không can thiệp hành chính hay vi phạm nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước. Đặc biệt, vai trò lãnh đạo của Đảng còn được khẳng định trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đồng thời chỉ đạo hoàn thiện thể chế, cơ chế kiểm soát quyền lực và tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và hệ thống chính trị; trực tiếp chỉ đạo các cơ quan chức năng điều tra, xử lý nhiều vụ việc nghiêm trọng. Đây là minh chứng rõ ràng cho cam kết của Đảng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền công minh, liêm chính, hoạt động vì lợi ích của nhân dân và trong khuôn khổ pháp luật.
Năm là, bản chất Nhà nước pháp quyền Việt Nam thể hiện ở việc ngày càng mở rộng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Hiến pháp năm 2013 đã có bước tiến lớn khi dành cả chương II để quy định về quyền con người và quyền công dân: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”(15). Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ bảo vệ an ninh, trật tự mà còn phải bảo đảm tự do kinh doanh, quyền phát triển cho mọi cá nhân. Ngày 04-5-2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó khẳng định: “Xóa bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân Việt Nam... bảo đảm đầy đủ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng, được tự do kinh doanh các ngành nghề pháp luật không cấm”(16). Đây là bước hoàn thiện mới về mở rộng các quyền công dân, quyền con người thể hiện bản chất nhân văn của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
3. Kết luận
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân không chỉ là mục tiêu chính trị hàng đầu của Đảng và Nhà nước trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị, mà còn phản ánh tính tất yếu và đúng đắn của quá trình phát triển đất nước theo hướng dân chủ, văn minh. Bởi lẽ, đây là mô hình Nhà nước tiến bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó đã thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào bộ máy nhà nước cũng như nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy. Đây chính là bản chất dân chủ, tiến bộ của mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đóng vai trò quan trọng góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và bảo đảm sự bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, là một trong những điều kiện cần thiết để Việt Nam bước vào kỷ nguyên thịnh vượng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
_________________
(1), (4), (6), (12), (14), (15) Hiến pháp năm 2013
(2) Nguyễn Đăng Dung: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr. 37
(3), (8), (13) Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 27- NQ/TW ngày 09-11-2022 về tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
(5) Đỗ Văn Đại: Hiến pháp và quyền lực nhân dân, Nxb Hồng Đức, TP Hồ Chí Minh, 2019, tr.25
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.51.
(9) Phạm Hồng Thái: Pháp luật và Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018, tr. 88
(10) Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 468/ QĐ- TTg ngày 27-3-2021 Phê duyệt đề án đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính.
(11) Chính phủ: Nghị định số 90/2020 NĐ-CP ngày 13-8-2020 về đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức.
(16) Bộ Chính trị: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04-5-2025 về phát triển kinh tế tư nhân.