Nâng cao chất lượng công tác xây dựng luật đáp ứng yêu cầu kỷ nguyên phát triển mới
(LLCT) - Trong những năm qua, hệ thống pháp luật nước ta ngày càng được hoàn thiện cả về nội dung và quy trình, thủ tục, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích của người dân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, ngày càng tương thích với các nguyên tắc, chuẩn mực của các điều ước quốc tế. Bên cạnh những thành tựu, công tác xây dựng pháp luật nói chung và xây dựng luật nói riêng còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa theo kịp thực tiễn. Do vậy, cần có những những giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng công tác xây dựng luật, phù hợp với chủ trương, quan điểm, định hướng mà Nghị quyết số 66 -NQ/TW đề ra, để pháp luật không chỉ là công cụ quản lý nhà nước mà còn đóng vai trò kiến tạo phát triển.
TS TRẦN VĂN QUÝ
Viện Nhà nước và pháp luật
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Mở đầu
Công tác xây dựng luật có tầm quan trọng đặc biệt, bảo đảm cho hệ thống pháp luật đồng bộ, công bằng, khả thi, trở thành công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, phục vụ phát triển đất nước và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, giúp huy động nguồn lực, điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo vệ quyền lợi của người dân và tạo nên một hệ thống pháp luật hiện đại, phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Trong thời gian qua, công tác xây dựng luật của Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, thể hiện qua việc tạo đột phá, đổi mới tư duy và hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng khung khổ pháp lý cho quản trị quốc gia trong kỷ nguyên số, bảo đảm quyền con người, góp phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí và nâng cao năng lực hoạch định chính sách.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, đòi hỏi công tác xây dựng luật cần được đổi mới toàn diện, tập trung vào việc nâng cao chất lượng và tính hiệu quả của pháp luật, áp dụng các phương pháp khoa học và phù hợp trong quá trình xây dựng, soạn thảo và thực thi pháp luật, phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
2. Nội dung
2.1. Thực trạng công tác xây dựng luật ở nước ta
Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quyết tâm, nỗ lực của Quốc hội cũng như các cơ quan, tổ chức, công tác xây dựng pháp luật nói chung và xây dựng luật nói riêng đã đạt được những kết quả tích cực. Quy trình xây dựng luật được thực hiện nghiêm túc; các dự án luật được tổ chức lấy ý kiến rộng rãi tại các cơ quan, tổ chức có liên quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản với nhiều hình thức phù hợp. Việc thảo luận của các đại biểu Quốc hội và việc tiếp thu, chỉnh lý các dự án luật được tiến hành nghiêm túc. Quy trình xin ý kiến Bộ Chính trị đối với các nội dung lớn, quan trọng của dự án luật tuân thủ chặt chẽ, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng pháp luật. Quốc hội đã thông qua số lượng lớn các luật với chất lượng ngày càng cao.
Nhờ đó, hệ thống pháp luật được xây dựng tương đối đồng bộ, toàn diện, thống nhất, cụ thể, khả thi, dễ thi hành, đáp ứng các yêu cầu đặt ra của Nhà nước và xã hội, đặc biệt là yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế sâu rộng. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã đề ra mục tiêu, quan điểm, định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, từ đó chất lượng pháp luật ngày càng được nâng lên một cách rõ rệt, đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chức năng lập pháp của Quốc hội đã được đẩy mạnh và chuyên nghiệp hơn, rất nhiều dự án luật và nghị quyết được thông qua tại các kỳ họp của Quốc hội (kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua 34 luật và 34 nghị quyết; kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV dự kiến thông qua 53 luật và nghị quyết) đã tạo hành lang pháp lý ngày càng tốt hơn để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh, khắc phục và tháo gỡ nhiều điểm nghẽn về thể chế - bệnh kinh niên trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế.
Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội, đặc biệt là yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc và cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy (tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp), phấn đấu tăng trưởng kinh tế hai con số, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập:
Tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản luật, gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật của người dân, doanh nghiệp và thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước. Đặc biệt là trong các lĩnh vực: đất đai, đầu tư, xây dựng, quy hoạch, nhà ở, kinh doanh bất động sản, môi trường, vệ sinh, an toàn thực phẩm…
Sự xung đột, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật gây ra tác động tiêu cực đối với người dân, doanh nghiệp, như sự lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc, lỡ cơ hội đầu tư, làm tăng chi phí và rủi ro đối với hoạt động kinh doanh. Đồng thời, các xung đột, chồng chéo này cũng là những cản trở đối với việc thực hiện pháp luật, làm giảm niềm tin vào pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho lợi ích ngành, lợi ích nhóm và cục bộ địa phương phát triển. Vẫn còn hiện tượng các nhóm lợi ích có những cách thức tác động tinh vi đến cá nhân, tổ chức được giao nhiệm vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Một số quan điểm, chủ trương của Đảng chậm được thể chế hóa thành quy định pháp luật; pháp luật vẫn chủ yếu được coi là công cụ để quản lý, chưa chuyển mạnh sang tư duy kiến tạo, phát triển - pháp luật phải được coi vừa là công cụ quản lý, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển; chất lượng thể chế chưa cao, thiếu tính khả thi (chẳng hạn, Bộ luật Hình sự năm 2015 vừa được Quốc hội thông qua, chưa có hiệu lực đã phải ra nghị quyết tạm hoãn thi hành); một số khâu trong quy trình xây dựng luật còn mang tính hình thức, chưa thực chất (tham vấn chính sách, giải trình về việc tiếp thu chỉnh lý chưa rõ ràng).
Hiện chưa có cơ chế đặc biệt về đãi ngộ để thu hút, giữ chân nhân lực tham gia công tác xây dựng luật; chưa có cơ chế để đội ngũ cán bộ, công chức yên tâm làm việc, phát huy khả năng trong công tác này. Do vậy, nguồn nhân lực pháp luật chưa được bảo đảm, chưa thể hiện rõ tính chuyên nghiệp trong quá trình xây dựng luật.
Nguồn lực cho hoạt động ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số phục vụ đổi mới, hiện đại hóa công tác xây dựng luật còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ và đặc thù của ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trong lĩnh vực quan trọng này.
Việc quản lý, theo dõi, giám sát quá trình xây dựng luật vẫn được thực hiện bằng các phương pháp thủ công. Thông tin, tài liệu, hồ sơ về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật chưa được quản lý tập trung, dẫn đến việc xây dựng luật khó bảo đảm tiến độ và chất lượng. Việc chưa có cơ sở dữ liệu tập trung về hồ sơ dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp theo dõi quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Đồng thời, các cơ quan không có nguồn tư liệu đầy đủ cho các hoạt động đề xuất nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật.
2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng luật ở Việt Nam hiện nay
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng đối với công tác xây dựng luật
Đây là một trong bảy nhóm nhiệm vụ, giải pháp mang tính định hướng của Nghị quyết số 66-NQ /TW ngày 30-4-2025 của Bộ Chính trị Về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đề ra. Nghị quyết khẳng định: “Các cấp ủy đảng phải lãnh đạo toàn diện, trực tiếp việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật và tăng cường kiểm tra, giám sát công tác này. Mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong chấp hành và tuân thủ pháp luật, lan tỏa tinh thần thượng tôn Hiến pháp, pháp luật. Xác định xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật và kiểm tra, giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, thường xuyên của các bộ, ngành Trung ương. Thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thi hành pháp luật. Người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, chịu trách nhiệm chính về chất lượng chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của bộ, ngành mình; gắn với công tác đánh giá, khen thưởng, sử dụng cán bộ và có chế tài, biện pháp xử lý đối với người không thực hiện đầy đủ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật”.
Cụ thể hóa chủ trương nêu trên, các cấp ủy đảng, người đứng đầu các cơ quan gắn với từng khâu trong quy trình xây dựng luật phải lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, trực tiếp công tác xây dựng luật, chịu trách nhiệm chính về chất lượng và tiến độ công tác xây dựng luật. Phải xác định đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên và liên tục trong sinh hoạt đảng định kỳ hằng tháng. Chẳng hạn, cơ quan có trách nhiệm góp ý dự thảo dự án luật, sau khi phân công cho cán bộ cụ thể trực tiếp thực hiện việc đóng góp ý kiến thì cấp ủy đảng, người đứng đầu cơ quan đó phải thường xuyên kiểm tra, giám sát về chất lượng, tiến độ và chịu trách nhiệm về chất lượng và tiến độ bản đóng góp ý kiến đó. Đây là chủ trương mới và quyết liệt của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết số 66, nhằm khắc phục sự buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng và người đứng đầu các cơ quan gắn với từng khâu trong quy trình lập pháp. Sự buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy đảng, người đứng đầu đã dẫn đến tình trạng đóng góp ý kiến cho các dự án luật trở nên hình thức, đối phó, không thực chất. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến thực trạng thể chế là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”.
Để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, Nghị quyết số 66 yêu cầu: “Các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan của Quốc hội cơ cấu ít nhất một lãnh đạo có chuyên môn pháp luật. Các cấp ủy địa phương quan tâm phân công cấp ủy viên phụ trách công tác tư pháp và cơ cấu giám đốc sở tư pháp tham gia cấp ủy cấp tỉnh; có cơ chế điều động, luân chuyển cán bộ, công chức của Bộ, ngành Tư pháp đi địa phương và làm việc ở bộ, ngành Trung ương để bổ sung kinh nghiệm thực tiễn”. Có thể khẳng định, đây là chủ trương mới của Đảng, chủ trương này xuất phát từ nhận thức lại vai trò của pháp luật: “Pháp luật vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển”.
Trước đây, chúng ta coi pháp luật chỉ là công cụ để quản lý nhà nước và xã hội, thì với Nghị quyết số 66, Đảng ta xác định quan điểm này cần phải được khắc phục triệt để trong quy trình làm chính sách. Tư duy “không quản được thì cấm” cần phải được bãi bỏ trong hoạt động lập pháp. Triển khai quan điểm nêu trên, công tác cán bộ tại các cơ quan Trung ương và địa phương cần thực hiện:
- Đối với Chính phủ: cơ cấu một Phó Thủ tướng có kiến thức chuyên sâu về pháp luật phụ trách và chịu trách nhiệm trực tiếp về các chính sách được thể hiện trong các dự án luật, kể cả các dự án luật không do Chính phủ trình. Phải giải trình để bảo vệ các chính sách đã được tập thể thành viên Chính phủ bàn bạc, thảo luận, thông qua nếu các cơ quan của Quốc hội thông qua hoạt động thẩm tra các dự án luật yêu cầu sửa đổi chính sách. Khi không bảo vệ được các chính sách đó thì phải thảo luận với cơ quan thẩm tra để tìm phương án chính sách mới cho phù hợp, tránh thỏa hiệp về chính sách một cách dễ dãi như thời gian qua. Chính phủ cũng nên thí điểm thành lập Trung tâm nghiên cứu, tư vấn chính sách pháp luật về dư luận xã hội về chính sách pháp luật. Giải pháp này sẽ góp phần bảo đảm tính hiệu quả, khả thi trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật.
- Đối với các bộ, ngành: cơ cấu một Thứ trưởng có kiến thức chuyên sâu về pháp luật phụ trách và chịu trách nhiệm trực tiếp về chất lượng các văn bản luật thuộc lĩnh vực bộ, ngành mình quản lý.
- Đối với địa phương: cơ cấu một Phó Chủ tịch tỉnh có kiến thức chuyên sâu về pháp luật phụ trách và chịu trách nhiệm trực tiếp về chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương mình.
- Đối với Quốc hội: là cơ quan lập pháp tối cao nên cán bộ các cơ quan của Quốc hội (Hội đồng dân tộc và các ủy ban) phải được đào tạo bài bản, chuyên sâu về pháp luật. Đây là hoạt động đòi hỏi tính chuyên gia rất cao.
Hai là, bảo đảm tính chuyên nghiệp, kỷ cương, thực chất quy trình lập pháp
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 quy định quy trình xây dựng luật được thực hiện thông qua 4 bước chính:
- Xây dựng định hướng lập pháp nhiệm kỳ và chương trình lập pháp hằng năm của Quốc hội;
- Xây dựng chính sách;
- Soạn thảo dự án luật;
- Thẩm tra, thông qua, công bố luật.
Trong quy trình lập pháp nêu trên, có những hoạt động cụ thể gắn với từng bước trong quy trình lập pháp còn mang tính hình thức, chưa thực chất, dẫn đến chất lượng các dự án luật chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn. Một trong số đó là hoạt động lấy ý kiến (tham vấn) và giải trình về việc tiếp thu, chỉnh lý. Luật thể hiện ý chí chung của xã hội, do đó trong quy trình xây dựng, cơ quan soạn thảo dự án phải lấy ý kiến rộng rãi đối với các chủ thể trong xã hội, đặc biệt chú trọng đến ý kiến góp ý của các chuyên gia, nhà khoa học và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án luật đó. Việc phối hợp giữa hai chủ thể: xin ý kiến và cho ý kiến còn hình thức, đối phó, chưa hiệu quả, chưa bảo đảm tính chuyên nghiệp và kỷ cương.
Để khắc phục tình trạng này, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải quy định rõ về trách nhiệm giải trình, tiếp thu chỉnh lý các ý kiến góp ý của chủ thể lấy ý kiến một cách công khai, minh bạch và rõ ràng. Gắn trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan xin ý kiến và cho ý kiến về chất lượng và thời hạn của hoạt động này. Phải xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ này. Có chế độ khen thưởng - kỷ luật rõ ràng đối với cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ. Đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp bởi văn bản nên chăng tại hội nghị thẩm định và hội nghị thẩm tra dự án luật có sự tham gia của đại diện nhóm đối tượng này. Khi tham gia hội nghị, đại diện nhóm đối tượng chịu sự tác động trực tiếp phải trình bày ý kiến chung của cả nhóm, không được phát biểu ý kiến cá nhân. Tương tự như vậy, đại biểu của Hội đồng Dân tộc tham gia hội nghị thẩm tra các vấn đề liên quan đến chính sách dân tộc và đại biểu của các ủy ban của Quốc hội tham gia thẩm tra về bình đẳng giới phải trình bày ý kiến chung của Hội đồng Dân tộc hoặc ủy ban (trên cơ sở đã bàn bạc, thảo luận trước, thống nhất quan điểm về các nội dung thẩm tra), không được nêu ý kiến cá nhân về những nội dung thẩm tra.
Một trong những bất cập trong quy trình lập pháp, đó là cơ quan trình dự án thường xuyên vi phạm thời hạn và sự thiếu chuyên nghiệp, thiếu nghiêm túc trong chuẩn bị hồ sơ. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định: “chậm nhất là 15 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp, hồ sơ dự án luật, nghị quyết và báo cáo thẩm tra phải được gửi đến các đại biểu Quốc hội” (Khoản 1 Điều 39). Thực tế cho thấy, tình trạng các dự án luật, hồ sơ chưa được chuẩn bị đầy đủ, thiếu chuyên nghiệp, dẫn đến việc đại biểu không đủ thời gian nghiên cứu và thẩm tra. Nguyên nhân có thể do áp lực thời gian gấp rút, công việc quá tải, hoặc quy trình chuẩn bị hồ sơ chưa được thực hiện chặt chẽ, dẫn đến chất lượng thẩm tra bị ảnh hưởng.
Việc vi phạm quy định về thời hạn đưa trình dự án luật đến đại biểu Quốc hội cũng là một trong những nguyên nhân không bảo đảm chất lượng dự án luật vì Quốc hội làm việc theo kỳ họp, mỗi năm họp 2 kỳ, mỗi kỳ kéo dài khoảng 30 ngày. Tại kỳ họp, Quốc hội thực hiện đồng thời 3 chức năng: lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Điều 69 Hiến pháp năm 2013). Khối lượng công việc là rất nhiều (tính riêng chức năng lập pháp thì kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV dự kiến thông qua 53 luật và nghị quyết). Nếu không bảo đảm về thời gian cho đại biểu nghiên cứu hồ sơ dự án luật sẽ dẫn đến phiên thảo luận trở nên hình thức, ý chí, nguyện vọng của cử chi không được phản ánh, thể hiện trong các chính sách, pháp luật. Do đó, cần phải xác định rõ trách nhiệm và quy định rõ chế tài đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân khi vi phạm.
Pháp luật không chỉ thể hiện tính chính trị mà còn thể hiện tính khoa học cao, do đó quy trình lập pháp phải có cơ chế cụ thể, rõ ràng, hiệu quả trong việc thu hút sự tham gia của chuyên gia và các nhà khoa học trong xây dựng chính sách, thẩm định chính sách và thông qua chính sách; trong soạn thảo dự án và đặc biệt quan trọng hội nghị thẩm định và thẩm tra dự án luật.
Ba là, bảo đảm nguồn lực cho hoạt động lập pháp
Nguồn lực cho hoạt động xây dựng luật bao gồm nhân lực và vật lực. Về nhân lực, cán bộ xây dựng pháp luật nói chung và luật nói riêng vẫn chủ yếu dựa theo kiến thức kinh nghiệm là chính mà chưa được đào tạo một cách bài bản, chuyên sâu về kỹ năng làm chính sách và kỹ năng xây dựng luật. Việc không được trang bị các kỹ năng này và sự nhận thức không đầy đủ đã dẫn đến tình trạng “vừa học vừa làm”, “vừa thiết kế vừa thi công”.
Trong một cuộc khảo sát 314 cán bộ đang tham gia công tác xây dựng pháp luật tại các bộ, ngành cho thấy: “67% trả lời có nhu cầu cần được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng phân tích chính sách, 72,1% có nhu cầu cần được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ thuật đánh giá tác động kinh tế - xã hội; 61,2% có nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật”(1).
Số liệu khảo sát cho thấy, nhu cầu được đào tạo chuyên sâu về xây dựng chính sách và dịch chính sách thành luật là rất cao và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết số 27 - NQ/TW ngày 9-11-2022 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh mới đã khẳng định: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” là một trong ba trọng tâm. Tiếp nối chủ trương đó, Nghị quyết số 66 tiếp tục khẳng định: Xây dựng giải pháp đột phá nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật” là một trong bảy nhóm nhiệm vụ, giải pháp. Cụ thể hóa giải pháp này, Nghị quyết số 66 yêu cầu: “Xây dựng chương trình, tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về xây dựng pháp luật. Xây dựng chuẩn đào tạo đối với các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp”. Thực hiện chủ trương này, Chính phủ cần giao cho Bộ Tư pháp xây dựng đề án đào tạo chuyên sâu về “xây dựng pháp luật với các nội dung sau đây: khung chương trình đào tạo; cơ sở đào tạo; đối tượng được đào tạo; thời gian đào tạo một cách cụ thể, chi tiết. Đây là giải pháp căn bản, dài hạn để chuyên nghiệp hóa đội ngũ làm luật.
Về vật lực - đó chính là ngân sách chi cho hoạt động xây dựng pháp luật. Trước khi Nghị quyết số 66 ra đời, chúng ta coi chi ngân sách cho hoạt động xây dựng pháp luật là chi phí hành chính thông thường, chi cho hoạt động công vụ nên phải tiết kiệm tối đa. Chế độ đãi ngộ cho cán bộ chuyên trách xây dựng pháp luật ở mức rất thấp: 60 nghìn đồng/ 01 ngày làm việc cho cán bộ trung ương và 40 nghìn đồng/ 01 ngày làm việc cho cán bộ địa phương. Với chế độ đãi ngộ thấp như vậy rất khó thu hút những cán bộ có năng lực tham gia vào công tác này. Nghị quyết số 66 đã đề ra những chủ trương, quan điểm mới mang tính đột phá cho hoạt động xây dựng pháp luật: “Thực hiện cơ chế tài chính đặc biệt cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật”. Nghị quyết khẳng định: “bảo đảm chi cho công tác xây dựng pháp luật không thấp hơn 0,5% tổng chi ngân sách hàng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển”. Để thu hút được đội ngũ chuyên gia và các nhà khoa học vào công tác xây dựng pháp luật, tạo động lực và yên tâm công tác, Nghị quyết đã đưa ra mức “Hỗ trợ hằng tháng bằng 100% mức lương theo hệ số hiện hưởng với người trực tiếp, thường xuyên làm công tác tham gia nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng pháp luật tại một số cơ quan, đơn vị”.
3. Kết luận
Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc với nhiều cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi pháp luật giữ một vai trò mới: vừa là công cụ quản lý nhà nước, vừa kiến tạo phát triển đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới căn bản quy trình xây dựng luật theo đúng chủ trương, quan điểm và định hướng lớn mà Nghị định số 66-NQ/TW ngày 30-4-2025 của Bộ Chính trị đã đề ra. Với những định hướng đúng đắn của Đảng, sự quyết tâm của các cơ quan trong hệ thống chính trị, sự ủng hộ của nhân dân, hoạt động lập pháp sẽ có bước phát triển đột phá đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đất nước.
_________________
Ngày nhận bài: 9-11-2025; Ngày phản biện 12-11-2025; Ngày duyệt đăng: 13-11-2025.
Email tác giả: tvquy@gmail.com
(1) Lê Hồng Hạnh: Mô hình xây dựng pháp luật trong Nhà nước pháp quyền từ lý luận đến thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2017.