Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và sự vận dụng trong kỷ nguyên mới
(LLCT) - Sử dụng một cách khoa học, hợp lý mọi nguồn lực của cá nhân, tập thể và đất nước, đem lại hiệu quả cao nhất, tránh thất thoát, lãng phí là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Người coi đó không chỉ là yêu cầu kinh tế khách quan để phát triển đất nước mà còn là ý thức chính trị, đạo đức của mỗi người. Đây là tư tưởng mang tính khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc, còn vẹn nguyên giá trị và tính thời sự, cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
TS PHẠM VĂN MINH
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS NGUYỄN THỊ HẢI VÂN
Trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong

1. Mở đầu
Xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là một trong những nội dung cơ bản, nhất quán và xuyết suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng lý luận cũng như hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Ở đó, Người nhấn mạnh yêu cầu sử dụng một cách khoa học, hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả mọi nguồn lực, tránh thất thoát, lãng phí không cần thiết. Theo Người, đây không chỉ là yêu cầu kinh tế khách quan để phát triển đất nước mà còn là ý thức chính trị, là nguyên tắc sống và làm việc, là đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên và toàn thể xã hội.
2. Nội dung
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Về vai trò của văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là hệ giá trị, chuẩn mực và hành vi ứng xử tích cực của con người trong việc sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực vật chất và tinh thần của cá nhân, tập thể và xã hội, nhằm tạo ra hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất, tránh sự thất thoát, lãng phí, góp phần vào phát triển bền vững đất nước và xây dựng đạo đức xã hội tiến bộ. Nói cách khác, văn hóa tiết kiệm, chống lãng phí là trình độ văn hóa thể hiện ý thức, thái độ và hành vi có trách nhiệm của con người trong việc sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực vật chất và tinh thần, nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho bản thân, tập thể và cộng đồng, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững đất nước và chuẩn mực đạo đức xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là hệ thống quan điểm lý luận và chỉ dẫn thực tiễn về việc hình thành và phát triển những giá trị văn hóa, đạo đức và lối sống tiết kiệm, chống lãng phí trong xã hội, nhằm sử dụng hợp lý, hiệu quả mọi nguồn lực vật chất, tinh thần của cá nhân, tập thể và xã hội, chống xa hoa, lãng phí, hướng con người tới lối sống lành mạnh, trách nhiệm, hiệu quả và bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân và sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Hồ Chí Minh coi thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là chuẩn mực đạo đức, là quốc sách và là nội dung cốt lõi của nền văn hóa mới để xây dựng đời sống mới, lối sống mới, tiến tới xây dựng một xã hội mới văn minh, tiến bộ. Nét đẹp văn hóa ấy được hình thành từ sự nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của mỗi cá nhân, tập thể đối với tài sản của nhân dân, của Nhà nước và của chính bản thân mình. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí không chỉ dừng lại ở sự khuyên răn đạo đức cá nhân, mà là hệ thống những quan điểm toàn diện, gắn liền đạo đức, kinh tế, chính trị và văn hóa, hướng tới mục tiêu xây dựng con người mới, xã hội mới, vì sự liêm chính của Nhà nước và sự phát triển bền vững của đất nước. Điều này đã được Người chỉ rõ: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”(1). Người nhấn mạnh: “muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải khắc phục khuyết điểm, tức là phải tăng gia sản xuất, tiết kiệm, chống lãng phí, bảo vệ của công”(2).
Về tiết kiệm và thực hành tiết kiệm
Hồ Chí Minh định nghĩa ngắn gọn và giải thích cụ thể, minh chứng thuyết phục về tiết kiệm và thực hành tiết kiệm: “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”(3); “Tiết kiệm nghĩa là: 1 giờ làm xong công việc của 2, 3 giờ. 1 người làm bằng 2, 3 người. 1 đồng dùng bằng giá trị 2, 3 đồng”(4). Hoặc, tiết kiệm là “Không được phung phí nhân lực vật lực của dân. Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá lãng phí vô ích”(5). Theo đó, tiết kiệm là sử dụng một cách khoa học, hợp lý và hiệu quả mọi nguồn lực của cá nhân và cộng đồng, không được sử dụng một cách bừa bãi, hoang phí, xa xỉ, tốn kém. Thực hành tiết kiệm là phải biết cân đối, tính toán các nguồn lực để chi phí bỏ ra nhỏ nhất, nhưng lại đạt được kết quả cao nhất. Cụ thể hơn, thực hành tiết kiệm là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tiền của, thời gian, công sức lao động, tích trữ thêm vốn cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nhằm nâng cao mức sống của nhân dân cũng như phát triển bền vững đất nước.
Hồ Chí Minh phân tích, chỉ rõ nhiều chiều cạnh của văn hóa tiết kiệm để có cái nhìn toàn diện và thực hành tiết kiệm một cách hiệu quả. Theo Người: “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm”(6). Người chỉ rõ: “Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ. Việc đáng làm trong một giờ, mà kéo dài đến 2, 3 giờ, là xa xỉ. Hao phí vật liệu, là xa xỉ. Ăn sang mặc đẹp trong lúc đồng bào đang thiếu cơm, thiếu áo, là xa xỉ. Ăn không ngồi rồi, trong lúc đang cần kháng chiến và xây dựng, là xa xỉ. Vì vậy, xa xỉ là có tội với Tổ quốc, với đồng bào”(7). Điều này cho thấy, tiết kiệm chính là việc sử dụng các nguồn lực một cách khoa học, hợp lý, không tằn tiện bủn xỉn mà cũng không hoang phí, lãng phí, bừa bãi.
Hồ Chí Minh đề cập nội dung tiết kiệm và thực hành tiết kiệm một cách khá toàn diện:
Trước hết, phải tiết kiệm sức lao động: Hồ Chí Minh hiểu rõ, sức lao động là vốn quý giá nhất của con người, là nguồn gốc tạo ra của cải vật chất cho sự phát triển của xã hội. Vì thế, tiết kiệm sức lao động chính là tiết kiệm sức dân, nghĩa là tổ chức sản xuất khoa học, phân công lao động hợp lý và phân phối sản phẩm công bằng để tạo ra năng suất lao động cao nhất, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tiết kiệm sức lao động cũng có nghĩa là sử dụng nguồn lực sức dân một cách hợp lý cho những công việc thật sự cần thiết, tránh phô trương hình thức, thiếu thiết thực, gây lãng phí, hao tổn sức dân. Người thí dụ: “Việc gì trước kia phải dùng 10 người, nay ta phải tổ chức sắp xếp cho khéo, phải nâng cao năng suất của mỗi người, nhờ vậy mà chỉ dùng 5 người cũng làm được”(8).
Hai là, phải tiết kiệm thời gian: đối với Hồ Chí Minh, thời gian cũng là tiền của, thời gian đôi khi còn quý hơn tiền của. Có thời gian sẽ làm ra được tiền của nhưng có tiền của cũng không mua được thời gian, không thể kéo thời gian quay trở lại được. Người chỉ rõ: “Tiết kiệm thời giờ là Kiệm, và cũng là Cần”(9). Người nhấn mạnh: “ai đưa tiền bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ vứt đi, là người ngu dại”(10). Vì thế, cần phải tiết kiệm thời gian của mình cũng như thời gian của người khác. Muốn tiết kiệm thời gian thì phải xây dựng kế hoạch làm việc khoa học và phải chấp hành nghiêm kỷ luật lao động, đến làm việc đúng giờ, không được đến muộn, về sớm; làm việc phải hết trách nhiệm, hết khả năng; làm việc nhanh, mau lẹ, không chậm trễ; làm việc gì cũng phải chăm chỉ, chuyên tâm, làm cho ra làm để đạt hiệu quả cao nhất. Người thí dụ: “Việc gì trước kia phải làm 2 ngày, nay vì tổ chức sắp xếp khéo, năng suất cao, ta có thể làm xong trong 1 ngày”(11).
Ba là, tiết kiệm tiền của: theo Hồ Chí Minh, tiền của, vật chất là xương máu, mồ hôi lao động của nhân dân, nhất là trong điều kiện nước ta còn nghèo, ngân khố quốc gia còn hạn hẹp, thiếu thốn, nên việc sử dụng hợp lý nguồn lực tài chính để phát triển sản xuất, phát triển đất nước là vô cùng quan trọng và cần thiết. Cũng bởi vì, đất nước còn khó khăn, chưa thể chăm lo đầy đủ cho nhân dân nên nhân dân cũng cần phải tiết kiệm. Tiết kiệm trong chi tiêu để vừa bảo đảm điều kiện sinh hoạt tối thiểu, vừa tích lũy để đầu tư cho sản xuất và phòng bị khi khó khăn. Tiết kiệm tiền của chính là sử dụng hợp lý, khoa học nguồn tài chính của cá nhân, gia đình và xã hội để bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Dẫn chứng về tiết kiệm tiền của, Người viết: “Việc gì trước phải dùng nhiều người, nhiều thời giờ, phải tốn 2 vạn đồng. Nay vì tiết kiệm được sức người và thời giờ, nguyên liệu, cho nên chỉ tốn 1 vạn là đủ”(12). Người đặc biệt lưu ý đến việc tiết kiệm tài sản công. Người căn dặn: “phải biết tiết kiệm đồng tiền kiếm được, cũng như các vật liệu và đồ dùng trong các sở..., chớ phao phí giấy má và các thứ của công”(13). Người nhấn mạnh: “Các chú còn phải biết tiết kiệm của công, dạy cho bộ đội biết tiết kiệm của công, thì mới thật là Kiệm”(14).
Về lãng phí và chống lãng phí
Hồ Chí Minh chỉ rõ, đối lập và là kẻ thù của tiết kiệm chính là lãng phí. Đó chính là sử dụng bất hợp lý và chi phí tốn kém mọi nguồn lực nhưng mang lại hiệu quả thấp hoặc không đạt được mục tiêu đề ra, gây thiệt hại cho cá nhân, tập thể và đất nước. Theo Người, đây là một thứ giặc nội xâm nguy hiểm, thậm chí còn nguy hiểm hơn căn bệnh tham ô. Người chỉ rõ: “Tham ô có hại; nhưng lãng phí có khi còn hại nhiều hơn: Nó tai hại hơn tham ô vì lãng phí rất phổ biến: lãng phí của cải, thì giờ, lực lượng của nhân dân, của Chính phủ”(15). Người nhấn mạnh: “Tuy không trộm cắp của công như tham ô, nhưng lãng phí cũng làm cho nhân dân và Chính phủ thiệt thòi, hao tổn, kết quả thì lãng phí cũng có tội như tham ô”(16). Hậu quả chung của tham ô, lãng phí và quan liêu là “phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”(17). Do đó, theo Người phải kiên quyết đấu tranh chống lãng phí. Chống lãng phí không chỉ là hành vi đạo đức mà còn là một yêu cầu chính trị, là biểu hiện của tinh thần yêu nước và cách mạng chân chính.
Hồ Chí Minh chỉ rõ các biểu hiện của lãng phí:
Trước hết, là lãng phí sức lao động: đây là tình trạng kém tinh thần trách nhiệm trong phụ trách và tổ chức sắp xếp công việc một cách vụng về. Việc ít người mà dùng nhiều người dẫn đến lãng phí khá nhiều công sức của nhân dân.
Hai là, lãng phí thời gian: do tính toán khối lượng công việc, sắp xếp thời gian thiếu khoa học, hợp lý cộng với sự chuẩn bị thiếu kỹ lưỡng, chu đáo mọi việc dẫn đến khi triển khai thì vướng mắc, việc có thể làm xong trong một ngày thì lại kéo dài nhiều ngày.
Ba là, lãng phí tiền của: đó là việc sử dụng tài chính, ngân sách, vật liệu, xe cộ, kho tàng, bến bãi... thiếu khoa học dẫn đến phí phạm; hoặc giữ gìn, bảo quản không đúng cách, thiếu trách nhiệm dẫn đến hàng hóa hư hỏng, hao hụt; sử dụng ngân sách, tiền bạc thiếu hợp lý để ứ đọng trong khi sản xuất lại thiếu vốn cũng là lãng phí cần phải đấu tranh, khắc phục...
Theo Hồ Chí Minh, nguyên nhân chủ yếu của lãng phí là do bệnh quan liêu. Hay nói cách khác, quan liêu là nguồn gốc của nạn tham ô, lãng phí. Người giải thích, khi mắc bệnh quan liêu sẽ không nhìn thấy suốt, không nghe được thấu, không nắm vững chế độ và không giữ đúng kỷ luật nên để cho những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãnh phí, dẫn đến thất thoát, tốn kém nguồn lực mà không đem lại hiệu quả mong muốn. Vì thế, tham ô, lãng phí, quan liêu đều là kẻ thù của nhân dân, kẻ thù của chế độ xã hội mới.
Về biện pháp xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Hồ Chí Minh chỉ rõ, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí có mối quan hệ biện chứng với nhau. Thực hành tiết kiệm tốt thì sẽ chống lãng phí tốt và ngược lại chống lãng phí tốt thì thực hành tiết kiệm sẽ tốt. Có nghĩa là sử dụng một cách khoa học, hợp lý và hiệu quả các nguồn lực của cá nhân, tập thể và xã hội thì sẽ tránh được lãng phí, thất thoát và tốn kém không cần thiết. Do đó, trong công cuộc kiến thiết nước nhà, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa thực hành tiết kiệm với hăng hái chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu.
Để xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí hiệu quả, Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn cụ thể cách thức, biện pháp theo một quy trình khoa học.
Trước hết, cần phải “đánh thông tư tưởng”, tức là phải tuyên truyền, giáo dục cho mọi người hiểu rõ biểu hiện, tác dụng của tiết kiệm cũng như nguyên nhân, tác hại của lãng phí để nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Người chỉ rõ: “giải thích rõ ràng, nói đi nói lại, cho mọi người đều hiểu: - Tham ô, lãng phí, quan liêu có hại cho dân cho nước thế nào? - Vì sao phải chống những nạn ấy?”(18). Đánh thông tư tưởng nhằm tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho mọi người, khắc phục những quan niệm sai lầm như: tham ô là có tội, còn lãng phí chỉ là một khuyết điểm; nước ta nghèo, không có gì mà tiết kiệm; không phải cơ quan kinh tế tài chính, thì không có gì mà tham ô, lãng phí, v.v.. Từ đó, tạo sự thống nhất trong nhận thức, nâng cao ý thức, trách nhiệm của mọi người trong thực hành tiết kiệm và đấu tranh phòng, chống lãng phí.
Hai là, tổ chức học tập và tự kiểm điểm, nghĩa là trên cơ sở những nhận thức, hiểu biết cơ bản đó, tổ chức cho các bộ phận nghiên cứu, thảo luận các tài liệu như: “- Những lời dạy của V.I.Lênin, Xtalin... nói về tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí, quan liêu. - Tuyên ngôn của Đảng Lao động, chính sách và chỉ thị của Đảng và của Chính phủ. - Tài liệu nói về cần, kiệm, liêm, chính, và cách sửa đổi lối làm việc”(19). Sau đó, tổ chức các bộ phận vừa nghiên cứu, vừa thật thà tự kiểm điểm và giúp nhau kiểm điểm. Người chỉ rõ: “Kiểm thảo nên nhằm vào mấy điểm chính và thiết thực, như: - Mình có tham ô không? - Có ăn bớt của công cho đơn vị riêng của mình không? - Có lười biếng, có kém lòng trách nhiệm, có đứng núi này trông núi nọ không? - Có phô trương lãng phí không? - Có lãng phí của Chính phủ, của Đoàn thể không? - Có lãng phí của dân và sức dân không? - Có bệnh quan liêu, xa cách quần chúng không?”(20).
Ba là, tổ chức hội nghị phê bình, góp ý và xử lý các vấn đề cụ thể. Hồ Chí Minh chỉ rõ, hội nghị cần giải thích các thắc mắc, sửa chữa những khuyết điểm, khen ngợi những người đã thành thật tự kiểm thảo, khuyến khích những người còn ngập ngừng e ngại, đặt chương trình chung cho đơn vị và bầu cử ban lãnh đạo phong trào để kiểm tra, giám sát việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Qua đó, tìm cách nâng cao hiệu quả công tác của các cán bộ trong cơ quan. Phái một số cán bộ trách nhiệm chia thành từng tiểu tổ điều tra các bộ phận cụ thể như kho tàng, sổ sách..., đồng thời, giúp các bộ phận ấy kiểm thảo và thường xuyên báo cáo rõ tình hình với Ban lãnh đạo để kịp thời chỉ đạo chung. Người nhấn mạnh: việc kiểm thảo phải có trọng tâm, phải làm từng bước, phải nắm vững và sâu sát, cụ thể; phải làm từ cấp trên đến cấp dưới, từ bộ phận chính đến bộ phận phụ...
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, để xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân về tiết kiệm và thực hành tiết kiệm, lãng phí và chống lãng phí; phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thường xuyên hàng ngày, giống như cơm ăn, nước uống. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí phải được nâng lên thành văn hóa trong đời sống chính trị cũng như đời sống xã hội. Xây dựng văn hóa tiết kiệm, chống lãng phí trên nền tảng ý thức chính trị cũng như trách nhiệm của mỗi cá nhân và tổ chức trong mọi lĩnh vực của đời sống.
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước
Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước cơ hội lịch sử để bước vào kỷ nguyên phát triển bứt phá, giàu mạnh, phồn vinh và thịnh vượng. Thực tiễn mới đòi hỏi thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó có việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, góp phần huy động hiệu quả mọi nguồn lực trong xã hội, tăng cường nội lực quốc gia và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước. Do đó, việc quán triệt và vận dụng hiệu quả những chỉ dẫn sâu sắc và rất thực tế của Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là một yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với toàn xã hội.
Thực hành tiết kiệm và chống lãng phí hiện nay vẫn chủ yếu xoay quanh ba vấn đề cốt lõi đã được Hồ Chí Minh chỉ dẫn đó là về công sức, thời gian và tiền của. Tuy nhiên, những biểu hiện về lãng phí ngày càng đa dạng, phức tạp. Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ: “lãng phí còn diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức khác nhau, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho phát triển”(21). Chẳng hạn, lãng phí trong sử dụng ngân sách, tài sản công như đầu tư công dàn trải, thiếu quy hoạch tổng thể dẫn đến công trình chậm tiến độ, đội vốn, kém hiệu quả; nhiều dự án đầu tư hạ tầng, khu công nghiệp, xây dựng trụ sở cơ quan, công trình, tượng đài vượt quy mô, không đúng nhu cầu thực tế; việc tổ chức lễ kỷ niệm, hội nghị, hội thảo, đi công tác, tiếp khách, mua sắm xe công, trang thiết bị… còn lãng phí, hình thức. Lãng phí trong quản lý, sử dụng đất, tài nguyên như đất đai, nhà xưởng, khu công nghiệp, công trình công cộng bỏ hoang, sử dụng sai mục đích; khai thác tài nguyên rừng, khoáng sản, nước... thiếu quy hoạch, không tái tạo gây ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên.
Lãng phí trong tổ chức và biên chế bộ máy nhà nước, như bộ máy hành chính cồng kềnh, chồng chéo chức năng, nhiều tầng trung gian; sử dụng lao động chưa đúng năng lực, phân công bất hợp lý, hiệu quả thấp, gây lãng phí thời gian, ngân sách. Lãng phí trong giáo dục, đào tạo, nghiên cứu như đào tạo không gắn với nhu cầu xã hội; cử cán bộ đi nước ngoài đào tạo bằng ngân sách nhưng không phát huy hiệu quả sau đào tạo; không sử dụng đúng người, đúng việc, không trọng dụng người có năng lực thực sử, bỏ phí nhân tài; đầu tư trang thiết bị, phòng thí nghiệm, thư viện hiện đại, tốn kém song không khai thác, sử dụng thường xuyên; nghiên cứu khoa học trùng lặp, hình thức, ít được ứng dụng vào thực tiễn; không tận dụng tối đa khả năng, tài năng hoặc nguồn lực có sẵn để phát triển, dẫn đến việc lãng phí cơ hội.
Những hiện tượng lãng phí trên đây, dù là lãng phí thời gian, công sức hay tiền bạc, tài nguyên, cơ hội; dù là sự lãng phí của cá nhân hay tổ chức thì đều gây ra hậu quả tiêu cực đối với sự phát triển bền vững của đất nước cũng như sự tiến bộ của xã hội. Nó làm suy giảm nguồn lực quốc gia, kìm hãm phát triển kinh tế - xã hội; làm xói mòn niềm tin của nhân dân, gây bức xúc xã hội; làm biến dạng đạo đức, lối sống, trái với tư tưởng Hồ Chí Minh về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”... Từ đó, làm ảnh hưởng đến uy tín và sự lãnh đạo của cán bộ, đảng viên cũng như toàn Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Nói về hậu quả, tác hại của nạn lãng phí, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: “gây suy giảm nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, giảm hiệu quả sản xuất, tăng gánh nặng chi phí, gây cạn kiệt tài nguyên, gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Hơn thế, lãng phí còn gây suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, tạo rào cản vô hình trong phát triển kinh tế - xã hội, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước”(22).
Vì thế, xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Đặc biệt, trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước, việc xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí càng có ý nghĩa thiết thực. Nó không chỉ nâng cao hiệu quả sử dụng thời gian, sức lao động, vốn, tài sản, tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực khác của đất nước mà còn góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, kiến tạo giá trị và chuẩn mực tích cực, tiến bộ cho cộng đồng. Điều này đã được Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Trước yêu cầu tăng cường nguồn lực, khơi dậy sức dân đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác phòng, chống lãng phí đang đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới rất khẩn trương, cấp bách” và yêu cầu phải “xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí; đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hàng ngày””(23).
Để xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong kỷ nguyên phát triển mới, xây dựng đất nước hùng cường và thịnh vượng hiện nay cần thực hiện tốt những nội dung, biện pháp cơ bản sau:
Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức và xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong cán bộ, đảng viên và toàn xã hội
Muốn có hành động đúng, trước hết phải có nhận thức đúng, cho nên để xây dựng văn hóa tiết kiệm, chống lãng phí trước hết cần nhận thức đúng, hiểu sâu sắc về giá trị của tiết kiệm và tác hại của lãng phí trong đời sống xã hội. Cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý nghĩa, nội dung và trách nhiệm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Các cơ quan truyền thông, tổ chức chính trị - xã hội tích cực xây dựng chuyên mục, chuyên đề thường xuyên nêu gương người tốt, việc tốt trong tiết kiệm, phê phán các biểu hiện lãng phí, tiêu xài phô trương. Đồng thời, cần đưa nội dung giáo dục tiết kiệm, chống lãng phí vào chương trình giáo dục công dân, đạo đức, kinh tế - chính trị ở các cấp học, từ phổ thông đến đại học. Ở khối hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước, tổ chức tập huấn, sinh hoạt chuyên đề hằng năm về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị.
Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Để công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thực sự có hiệu quả, cần có hành lang pháp lý đồng bộ, cụ thể, chặt chẽ, gắn với trách nhiệm rõ ràng của từng cá nhân, tổ chức. Do đó, cần tiếp tục cụ thể hóa và hoàn thiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh và tăng cường chế tài xử lý. Các quy định về sử dụng ngân sách, tài sản công, đầu tư công, khoa học - giáo dục, y tế, môi trường, chuyển đổi số… cần được bổ sung nguyên tắc “hiệu quả - minh bạch - trách nhiệm” làm thước đo đánh giá. Cùng với đó, quy định rõ trách nhiệm người đứng đầu nếu để xảy ra lãng phí, thất thoát nghiêm trọng phải bị xử lý kỷ luật hoặc bồi hoàn trách nhiệm vật chất. Mỗi cơ quan, đơn vị cần xây dựng “quy chế tiết kiệm nội bộ” làm căn cứ kiểm tra, đánh giá định kỳ. Đặc biệt, cần công khai, minh bạch và giải trình chi tiêu công. Mọi khoản chi từ ngân sách nhà nước, mua sắm công, đầu tư công đều phải được niêm yết, đăng tải trên cổng thông tin điện tử. Người dân có quyền tiếp cận thông tin, giám sát quá trình sử dụng nguồn lực quốc gia. Ngoài ra, cần khuyến khích áp dụng chính sách thưởng - phạt minh bạch: cá nhân, tập thể có sáng kiến, giải pháp tiết kiệm hiệu quả được tuyên dương, khen thưởng; ngược lại, nếu gây lãng phí phải bị xử lý nghiêm minh.
Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và giám sát xã hội
Lãng phí chỉ có thể ngăn chặn hữu hiệu khi có cơ chế kiểm soát chặt chẽ và minh bạch toàn bộ quy trình sử dụng nguồn lực. Vì thế, cần tăng cường quyền hạn và năng lực của Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, bảo đảm tính độc lập, khách quan và khả năng phản ứng nhanh trước dấu hiệu lãng phí. Kết quả kiểm toán cần được công khai, minh bạch để nhân dân, báo chí, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc giám sát. Việc thực hiện các kiến nghị kiểm toán phải có thời hạn và chế tài rõ ràng, tránh tình trạng “đánh trống bỏ dùi”. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò giám sát của nhân dân và các cơ quan báo chí. Thiết lập đường dây nóng quốc gia về phản ánh hành vi lãng phí, bảo vệ người tố cáo, khuyến khích nhân dân tham gia giám sát việc sử dụng ngân sách, đầu tư, tài sản công. Điều này thể hiện rõ tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(24) mà Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định.
Bốn là, đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh giản bộ máy và ứng dụng công nghệ số trong quản lý nguồn lực
Một nguyên nhân quan trọng dẫn tới lãng phí là cơ chế quản lý cồng kềnh, chồng chéo, thủ tục rườm rà, kém hiệu quả. Vì vậy, cần đồng bộ các giải pháp cải cách hành chính và ứng dụng khoa học - công nghệ vào quản lý. Cuộc cách mạng tinh giản bộ máy, sắp xếp lại tổ chức theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, rõ chức năng, nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã được triển khai, đưa lại những kết quả bước đầu. Cần tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) trong giám sát chi tiêu công, đầu tư công và quản lý tài sản nhà nước. Cùng với đó, thực hiện số hóa quy trình hành chính, giảm hội họp, giảm giấy tờ, sử dụng văn bản điện tử, chữ ký số, tiết kiệm thời gian và chi phí hành chính.
Năm là, phát động phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống lãng phí gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Đưa tiết kiệm, chống lãng phí thành phong trào thi đua, chuẩn mực đạo đức và nét đẹp văn hóa Việt Nam thời kỳ mới. Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể cần phát động các phong trào thực hành tiết kiệm, chống lãng phí một cách thiết thực trong toàn cơ quan, đơn vị, địa phương, tạo thành một phong trào sâu rộng trong toàn xã hội. Phong trào phải được tổ chức thực chất, có kiểm tra, đánh giá định kỳ và gắn với tiêu chí thi đua - khen thưởng. Đặc biệt, cần kết hợp phong trào này với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là thước đo đạo đức, nhân cách và bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên.
3. Kết luận
Hồ Chí Minh đã nêu lên một hệ thống quan điểm toàn diện về vai trò, nội dung và biện pháp xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đó là những quan điểm mang tính khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc, không chỉ góp phần quan trọng xây dựng và nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân mà còn góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng các nguồn lực của đất nước. Vì thế, những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí luôn mang tính thời sự trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước.
Việc tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, học tập và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người về xây dựng văn hóa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là yêu cầu cấp thiết để xây dựng bộ máy nhà nước liêm chính, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, phòng chống tham nhũng, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới.
_________________
Email tác giả: minhmta1677@gmail.com
(1), (3), (4), (5), (6), (7), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.128, 122, 124, 458, 123, 123-124, 123, 123.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.110.
(8), (11), (12), (14), (15), (16), (17), (18), (19), (20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd, tr.352-353, 353, 353, 220, 345, 297, 358, 358, 359, 359.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.181.
(21), (22), (23) Tô Lâm: Chống lãng phí, https://baochinhphu.vn, ngày 13-10-2024.
(24) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.27.