Nghiên cứu lý luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội

01/12/2025 14:13

(LLCT) - Bài viết tập trung phân tích những nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, qua đó làm rõ giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

ThS NGUYỄN THỊ THU TRANG
Học viện Chính trị khu vực III

bao dam cong bang xa hoi chu nghia o viet nam hien nay theo tu tuong ho chi minh hinh anh 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp học của công nhân Nhà máy 1-5 (Hà Nội), lá cờ đầu của phong trào bổ túc văn hóa ngành công nghiệp, ngày 19-12-1963. Ảnh tư liệu

1. M đu

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác lập những quan điểm cơ bản về mục tiêu, nội dung, phương thức và chủ thể quản lý xã hội, trong đó nhấn mạnh giải phóng dân tộc phải gắn với giải phóng con người, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, lấy nhân dân làm chủ thể và làm trung tâm.

2. Ni dung

2.1. Mc tiêu qun lý phát trin xã hi, bo đm tiến b, công bng xã hi

Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng, mục tiêu của phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội trước hết là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Trong đó, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp quan hệ mật thiết với nhau, là điều kiện, tiền đề để tiến tới giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, khát vọng lớn nhất của Hồ Chí Minh là “làm sao cho nước nhà được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1). Theo Người, khi nước nhà được độc lập, cần tập trung phát triển mọi nguồn lực để phục vụ đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Nước độc lập rồi mà dân vẫn đói, vẫn khổ, thì nền độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì, “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(2).

Từ quan điểm đó, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách trong thực tiễn. Phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí Minh đề ra một trong những nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đồng thời, Người yêu cầu thực hiện hai biện pháp: trước mắt và lâu dài. Trước mắt, mở ngay một cuộc lạc quyên bằng các phong trào “Hũ gạo cứu đói”, “Sẻ cơm nhường áo”, “Tuần lễ vàng”. Người viết thư kêu gọi đồng bào toàn quốc: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”(3). Lâu dài, phải tăng gia sản xuất để diệt nạn đói tận gốc. Với việc thực hiện các biện pháp bách đó, trong hơn 6 tháng (từ 11-1945 đến tháng 5-1946) về cơ bản đã thanh toán xong nạn đói trong nhân dân.

Trong suốt 24 năm đứng đầu Nhà nước (1945 - 1969), Hồ Chí Minh luôn yêu cầu: Chính sách của Đảng và Chính phủ phải không ngừng phấn đấu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, trước hết là những nhu cầu thiết thực hàng ngày cho nhân dân. Phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (ngày 10-01-1946), Người chỉ đạo: “Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành”(4). Thực hiện bốn điều đó để dân ta xứng đáng với tự do độc lập.

Hồ Chí Minh luôn trăn trở, làm thế nào mang lại cuộc sống tốt đẹp cho nhân dân, làm cho mỗi con người được phát triển toàn diện. Muốn đạt mục tiêu đó, phải giải phóng nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người dân Việt Nam, đó chính là nền tảng trong quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là, qun lý phát trin xã hi, bo đm tiến b, công bng xã hi nhm gi vng chính quyn và n đnh xã hi.

Sau ngày giành được độc lập, Việt Nam là nước nghèo, lạc hậu, đứng trước vô vàn khó khăn, thử thách. Thù trong giặc ngoài phá hoại chính quyền cách mạng. Về kinh tế, là một nước nông nghiệp lạc hậu, đại đa số nông dân nghèo đói, thiếu ăn do hậu quả của chế độ cũ. Tuy đã có một số ngành, một số cơ sở công nghiệp từ thời Pháp thuộc, nhưng chủ yếu là ngành công nghiệp khai thác với kỹ thuật thô sơ, năng suất thấp. Về văn hóa - xã hội, trình độ dân trí rất thấp, “Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước là 95 phần trăm, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì tiến bộ làm sao được? Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”(5). Nhiều tàn dư hủ tục lạc hậu, thói quen, lối sống trong chế độ cũ còn rất nặng nề.

Thực trạng đó đòi hỏi việc quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội phải được thực hiện một cách đồng bộ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và phải “coi trọng ngang nhau, không được xem nhẹ mặt nào, đó là kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội”(6). Sự phát triển kinh tế tạo điều kiện vật chất cho sự phát triển văn hóa, xã hội, bởi như Hồ Chí Minh lý giải “tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”(7). Việc hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ, phát huy trí tuệ và sức sáng tạo của nhân dân là mở đường cho sự phát triển văn hóa. Bởi “Có chính trị mới có văn hóa, xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được”(8). Sự phát triển về văn hóa, công bằng về xã hội tạo động lực mạnh mẽ, thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng xã hội mới, vừa bảo đảm sự phát triển cân bằng, bền vững của xã hội trên nền tảng nhân dân được hưởng trọn vẹn những giá trị mà độc lập, tự do mang lại.

Thực tiễn đất nước những năm sau ngày độc lập, nhờ sự ủng hộ của quần chúng nhân dân với chế độ mới, nên cách mạng Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn thử thách để bảo vệ, giữ vững chính quyền cách mạng, từng bước xây dựng chế độ mới.

Ba là, qun lý phát trin xã hi phi hưng đến công bng và bình đng xã hi. Trong điều kiện nước độc lập, dân tự do thì mọi người đều có cơ hội phát triển ngang nhau, có quyền được lao động và phải lao động theo khả năng của mình. Đây vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của tất cả mọi người. Nhất là trong chế độ nhân dân là chủ và làm chủ, mọi người phải nhận thức rõ vai trò là người chủ của đất nước, có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đối với Nhà nước, thực hiện chế độ phân phối công bằng, hợp lý theo nguyên tắc “Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”(9). Nguyên tắc này thể hiện sự công bằng về địa vị người làm chủ tư liệu sản xuất và cơ hội phát triển, phát huy hết khả năng của mỗi người, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Do đó, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, công bằng xã hội là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội phải tránh việc phân phối cào bằng, bình quân chủ nghĩa, thực hiện phương châm “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”(10).

Bn là, qun lý phát trin xã hi, bo đm tiến b, công bng xã hi nhm hin thc hóa con đưng đi lên ch nghĩa xã hi. Trong hành trình khảo sát thực tiễn thế giới, tận mắt chứng kiến cảnh áp bức bóc lột của thực dân đế quốc đối với những người dân lao động, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự trái ngược so với khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái mà giai cấp tư sản đề ra. Vì vậy, khi lựa chọn con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản, làm tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Vì, chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mới tôn trọng quyền con người, mang lại những giá trị tốt đẹp cho con người, trước hết là nhân dân lao động.

Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội không có người bóc lột người, ai cũng được tự do, đối xử công bằng, bình đẳng. Quản lý phát triển xã hội hướng đến bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội là một đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa xã hội và chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân lao động mới được hưởng giá trị của công bằng và tiến bộ xã hội.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ lý tưởng và mục tiêu phát triển của cách mạng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Muốn thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội trở thành nhu cầu tất yếu.

2.2. Ni dung và phương thc qun lý phát trin xã hi, bo đm tiến b, công bng xã hi

Hồ Chí Minh quan niệm, xã hội là sự thống nhất biện chứng trong các lĩnh vực cơ bản: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Theo đó: “Trong công cuộc kiến thiết đất nước ta, có bốn vấn đề cùng phải chú ý, cùng phải coi là quan trọng ngang nhau, không được xem nhẹ mặt nào, đó là: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội”(11).

Trong lĩnh vc chính tr: cốt lõi của quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội trong đời sống chính trị là xây dựng chế độ dân chủ, dân là ch và dân làm ch.

Hồ Chí Minh cho rằng, Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước đặt địa vị nhân dân lên cao nhất, là người chủ nước nhà. Dân là chủ nên quyền lực nhà nước bắt nguồn từ quyền lực nhân dân và được nhân dân ủy thác, giao nhiệm vụ, cũng như kiểm tra, giám sát, bãi miễn nếu Nhà nước ấy không còn xứng đáng. Nhà nước do dân nghĩa là nhà nước do nhân dân lập nên thông qua bầu cử để lựa chọn đại biểu xứng đáng của mình, nhà nước dựa vào dân bởi nhân dân là người giúp đỡ, đôn đốc, góp ý, đóng thuế để nhà nước hoạt động. Nhà nước vì dân là nhà nước luôn đặt tiêu chí phục vụ nhân dân với mục tiêu cao nhất là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân đúng với phương châm “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(12).

Dân là người chủ đất nước, có quyền quyết định mọi vấn đề hệ trọng, mang tính sống còn của đất nước. Điều 21, Hiến pháp đầu tiên của Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo, khẳng định: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”(13).

Để duy trì và phát huy chế độ dân chủ trong đời sống chính trị, một trong những vấn đề quan trọng là xây dựng Nhà nước pháp quyền, thượng tôn pháp luật. “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”(14), xã hội phải được điều hành và quản lý bằng hệ thống luật pháp hợp tự nhiên và lẽ phải, mọi cơ quan, tổ chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Đây là điều kiện quan trọng, là quy chuẩn trong tổ chức xã hội để hướng đến việc bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội.

Một vấn đề cốt yếu của quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội trong đời sống chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải xây dựng Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh, hoạt động vì lợi ích của nhân dân, để lãnh đạo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Trong công tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, vừa “hồng” vừa “chuyên”. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, phải phát huy dân chủ. Người chỉ rõ: “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ”(15), “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”(16). Trong Đảng “phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”(17), làm sao để “Khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến… Khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc”(18).

Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, phải quan tâm và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp cách mạng. Theo Hồ Chí Minh: “Công tác mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”(19). Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, “Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”(20). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí, Mặt trận tập hợp toàn dân, kết hợp thành khối thống nhất vững chắc. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc bảo đảm hài hòa lợi ích chung của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.

Trong lĩnh vc kinh tế: quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội được thể hiện phong phú, đa dạng trong đời sống kinh tế. Hồ Chí Minh xác định, chính sách kinh tế trong chế độ mới theo hướng: “Công tư đều lợi... Chủ thợ đều lợi... Công nông giúp nhau... Lưu thông trong ngoài... “Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta””(21). Để quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội trong đời sống kinh tế, phải thực hiện quản lý nền kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô.

Theo Hồ Chí Minh, quản lý kinh tế vĩ mô là xác lập và bảo đảm trong thực tế quyền làm chủ của nhân dân đối với quá trình sản xuất và quản lý kinh tế, trước hết là quyền làm chủ của họ đối với các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Xây dựng và phát triển một cơ cấu kinh tế hợp lý cân đối giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa dân tộc đa số và dân tộc thiểu số. Từ sự quản lý như vậy sẽ tạo ra cơ sở kinh tế để thực hiện công bằng, bình đẳng và ổn định xã hội.

Ở cấp độ vi mô, tức là trong đơn vị sản xuất cụ thể, Hồ Chí Minh chỉ ra nội dung quản lý kinh tế là “Tăng cường và củng cố các việc quản lý: quản lý sản xuất, quản lý vật tư, quản lý lao động, quản lý kỹ thuật, quản lý tiền bạc”(22). Mục tiêu là làm cho năng suất lao động không ngừng được nâng cao, của cải xã hội ngày càng nhiều, từ đó mà nâng cao đời sống người lao động.

Trong lĩnh vc văn hóa: xét đến cùng, toàn bộ đời sống của con người là đời sống văn hóa, là quá trình tồn tại và tạo nên giá trị của con người. Vì vậy, quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội gắn liền với quá trình quản lý phát triển xã hội trong đời sống văn hóa của con người.

Tính toàn diện của quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội trong xây dựng đời sống văn hóa thể hiện đa dạng, phong phú trên các mặt của đời sống văn hóa. Trước hết, trong văn hóa chính trị là xây dựng văn hóa đảng cầm quyền, “Đảng là đạo đức, là văn minh”, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có nhân cách, có văn hóa. Trong văn hóa văn nghệ là góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Trong văn hóa giáo dục là diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật phát triển của xã hội. Với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa góp phần xây dựng con người mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng. Trong văn hóa pháp luật là bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước. Văn hóa lối sống, đạo đức là nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con người.

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của người cách mạng. Mọi việc thành hay bại, chủ yếu là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không. Nhận thức như vậy để thấy văn hóa đạo đức là động lực lớn, thúc đẩy cách mạng phát triển. Trong đó, vai trò của quản lý phát triển xã hội trong lĩnh vực văn hóa là hết sức quan trọng, bảo đảm nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng.

Trong đi sng xã hi: với tư cách một hệ thống các vấn đề xã hội, liên quan trực tiếp tới đời sống của con người, như lao động và việc làm, mức sống, sức khỏe, y tế, nhà ở... nhất là hệ thống chính sách xã hội và thực hiện an sinh xã hội. Với mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”(23), “xã hội bình đẳng”, xã hội “công bằng hợp lý”, nên quan điểm phát triển trong lĩnh vực xã hội của Hồ Chí Minh chính là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó là chính sách với những người có công, đền ơn đáp nghĩa; đó là vấn đề giáo dục - ai cũng được học hành; đó là vấn đề chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân dân - dân cường thì quốc thịnh.

Để quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội hiệu quả phi có phương thc qun lý đúng, phù hp vi tng đi tưng, lĩnh vc. Theo Hồ Chí Minh, muốn quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội có hiệu lực, hiệu quả phải xây dựng và ban hành hệ thống chính sách, pháp luật đúng đắn. Bởi vì, Nhà nước ta tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, là cơ sở chủ yếu của mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, là công cụ để Nhà nước quản lý phát triển xã hội. Pháp luật phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với lẽ phải, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng, bình đẳng của mọi người dân trong xã hội. Vì, “nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mi vn đ khác trong lúc này là vn đ đi và làm ngưi, ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, bị áp bức”(24).

Nét đặc sắc trong phương thức quản lý phát triển xã hội của Hồ Chí Minh là kết hợp chặt chẽ, thống nhất pháp luật với đạo đức. Thông qua con đường giáo dục, tuyên truyền làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng nhận thức đầy đủ địa vị, vai trò của mình đối với sự phát triển của xã hội. Pháp luật là công cụ quan trọng, nhưng quan trọng hơn vẫn là quản lý phát triển xã hội dựa trên đạo đức, ý thức của con người.

Do đó, “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”(25). Quản lý phát triển xã hội bằng đạo đức và pháp luật sẽ góp phần hoàn thiện nhân cách con người. Đó là mục tiêu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, pháp quyền trong quản lý phát triển xã hội của Hồ Chí Minh là pháp quyền nhân nghĩa.

Quản lý phát triển xã hội là vấn đề khó, phức tạp, theo đó phải có nguyên tắc. Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến các nguyên tắc cơ bản như: tập trung dân chủ, kế hoạch hóa, liên hệ phản hồi. Trong đó, tập trung dân chủ phải luôn được nhận thức và thực hiện thường xuyên, đầy đủ để mọi người dân đều có quyền giám sát, tham gia vào công việc chung của xã hội. Mọi quyết sách của Đảng và Nhà nước đều phải phát huy vai trò, trí tuệ của nhân dân, trao đổi, bàn bạc, góp ý rộng rãi của nhân dân, để chủ trương, chính sách thực sự gắn với đời sống của nhân dân.

2.3. Ch th qun lý phát trin xã hi, bo đm tiến b, công bng xã hi

Th nht, Đng lãnh đo qun lý phát trin xã hi, bo đm tiến b, công bng xã hi. Đây là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người cho rằng “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đo đc cách mng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(26). Với vị thế là Đảng cầm quyền, phải đề ra đường lối, chủ trương đúng để lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện được mục tiêu của Đảng.

Về quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, trong Cương lĩnh chính tr đầu tiên do Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo, vấn đề xã hội đã được đặc biệt quan tâm và đặt ở vị trí đầu tiên: “A. V phương din xã hi thì: a) Dân chúng được tự do tổ chức. b) Nam nữ bình quyền, v.v.. c) Phổ thông giáo dục theo công nông hóa”(27).

Sau này, trong Chương trình Vit Minh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ các vấn đề xã hội cần giải quyết: “1. Thi hành luật lao động, ngày làm việc 8 giờ; 2. Giúp đỡ các gia đình đông con; 3. Lập ấu trĩ viên để chăm nom trẻ con; 4. Lập các nhà chiếu bóng, diễn kịch, câu lạc bộ, thư viện để nâng cao trình độ trí dục cho nhân dân; 5. Lập thêm nhà thương, nhà đỡ đẻ, nhà dưỡng lão”(28).

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo giải quyết vấn đề xã hội một cách nhanh chóng và hiệu quả. Người chỉ rõ phải diệt “giặc đói”, “giặc dốt”, giáo dục ý thức cần, kiệm, liêm, chính, tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết là nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới.

Theo Hồ Chí Minh, thông qua đường lối, chủ trương của Đảng định hướng cho hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước trong việc thể chế, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình, mục tiêu của Nhà nước. Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội tích cực tuyên truyền, vận động, giáo dục các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Th hai, Nhà nước t chc thc hin qun lý phát trin xã hi, bo đm tiến b, công bng xã hi. Đây là chủ thể trực tiếp hiện thực hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò quản lý của Nhà nước dân chủ nhân dân là Nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho dân. Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân dân và lấy con người làm mục tiêu phấn đấu cao nhất.

Hồ Chí Minh nêu rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách phát triển xã hội; bảo đảm cho mọi thành viên xã hội bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực và phát huy cao nhất năng lực của mình. Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghĩa là phải “vì dân”, chính tâm và thân dân. Muốn vậy, trong hoạt động quản lý, điều hành trên các lĩnh vực, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức trong tổ chức bộ máy phải “vận động tất cả lực lượng ca mi mt ngưi dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho” (29).

Th ba, Mt trn, các t chc chính tr - xã hi hi qun chúng tham gia qun lý phát trin xã hi, bo đm tiến b, công bng xã hi.

Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội làm cầu nối để nhân dân tham gia thực hiện vai trò quản lý phát triển xã hội. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tới vấn đề thực hành dân chủ trong xây dựng chế độ dân chủ mới, dân chủ trong chính trị, trong kinh tế, trong văn hóa, xã hội. Theo Người, “phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”(30). Có phát huy dân chủ thực sự thì mới động viên đ­ược tất cả lực l­ượng nhân dân tham gia phong trào cách mạng. Trong thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã phát động các phong trào thi đua trong quần chúng, động viên được tất cả các lực l­ượng, trí tuệ, sáng kiến của nhân dân thực hiện thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

3. Kết lun

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội được thể hiện toàn diện, sâu sắc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thực hiện được điều đó phải gắn mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội, dân tộc mới được độc lập, nhân dân mới được tự do, mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, các chính sách xã hội mới hướng đến con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.

_________________

Ngày nhn bài: 26-9-2025; Ngay bình duyt: 16-11-2025; Ngày duyt đăng: 01-12-2025.

Email tác gi: traika1908@gmail.com

(1), (2), (3), (4), (5), 912) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.4, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2011, tr.187, 175, 33, 175, 40, 51.

(6) Báo Cu quốc, ngày 8-10-1945.

(7), (17) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.12, Sđd, tr. 470, 544.

(8), (11) Hồ Chí Minh: V văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr.10, 11.

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.11, Sđd, tr. 404.

(10), (25), (26) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.15, Sđd, tr. 224, 617, 611-612.

(13) Tuyên ngôn đc lp năm 1945 và các Hiến pháp Vit Nam (1946, 1959, 1980, 1992), Nxb Chính trị quốc gia, 2005, tr. 40.

(14) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.1, Sđd, tr. 473.

(15), (21) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.8, Sđd, tr. 287, 267.

(16) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.9, Sđd, tr. 368.

(18) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.5, Sđd, tr. 319.

(19), (20) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.13, Sđd, tr. 453, 453.

(22) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.14, Sđd, tr. 140.

(23) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.13, Sđd, tr. 438.

(24) Hồ Chí Minh: Nhà nưc và pháp lut, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1990, tr.174.

(27), (28) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.3, Sđd, tr. 1, 632.

(29) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.6, Sđd, tr.232.

(30) Hồ Chí Minh: Toàn tp, t.7, Sđd, tr. 362.