Thực tiễn

Thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành Bộ Ngoại giao - xu hướng tất yếu và giải pháp hoàn thiện khung pháp lý

11/12/2025 10:55

DOI: https://doi.org/10.70786/PTOJ.5883
(LLCT) - Trong bối cảnh hiện đại hóa quản trị đầu tư công và nhu cầu phát triển hạ tầng đối ngoại gia tăng, việc nâng cao hiệu quả quản lý các dự án của Bộ Ngoại giao trở thành yêu cầu cấp thiết. Bài viết hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến mô hình Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành, phân tích thực trạng và các yêu cầu đặt ra đối với Bộ Ngoại giao, từ đó đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và mô hình tổ chức Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành Bộ Ngoại giao trong giai đoạn tới.

NGÔ PHƯƠNG NGHỊ
VŨ QUANG THẮNG
Cục Phục vụ Ngoại giao đoàn, Bộ Ngoại giao

Hoàn thiện khung pháp lý và quy chế hoạt động Ban Quản lý dự án Bộ Ngoại giao
Hội thảo khoa học “Cơ sở pháp lý, quy chế hoạt động Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành của Bộ Ngoại giao để thực hiện các dự án trong nước, ngoài nước và các gói thầu quốc tế”_Ảnh: Thành Long

1. Mở đầu

Trong bối cảnh yêu cầu hiện đại hóa quản trị quốc gia, nâng cao hiệu quả đầu tư công ngày càng cấp thiết, việc quản lý các dự án đầu tư xây dựng phục vụ đối ngoại đặt ra nhiều thách thức do đặc thù pháp lý, địa bàn quốc tế và yêu cầu phối hợp liên ngành. Thời gian qua, công tác đầu tư xây dựng phục vụ hoạt động đối ngoại của Việt Nam được triển khai trên phạm vi rộng, bao gồm cả dự án xây dựng, cải tạo trụ sở các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và các công trình phục vụ đối ngoại trong nước.

Tuy nhiên, do đặc thù về địa bàn quốc tế, khác biệt pháp lý giữa các quốc gia, yêu cầu phối hợp liên ngành và các chi phí đặc thù trong lĩnh vực ngoại giao, công tác quản lý đầu tư xây dựng của Bộ Ngoại giao còn phân tán, thiếu đầu mối chuyên trách và chưa đáp ứng yêu cầu chuyên nghiệp hóa dẫn tới hạn chế về điều hành, kiểm soát tiến độ và hiệu quả sử dụng vốn.

Việc thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành thuộc Bộ Ngoại giao vì vậy trở thành yêu cầu tất yếu, phù hợp với xu hướng quản trị đầu tư công hiện đại và chủ trương đổi mới tổ chức bộ máy, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lực công - hướng tới một nền hành chính phục vụ, minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả.

2. Nội dung

2.1. Cơ sở lý luậnthực tiễn về thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành

Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành là tổ chức sự nghiệp công lập được Nhà nước giao thực hiện chức năng đại diện chủ đầu tư hoặc thay mặt chủ đầu tư quản lý toàn bộ quá trình chuẩn bị, thực hiện và kết thúc dự án đầu tư công trong một ngành hoặc lĩnh vực quản lý nhà nước nhất định. Theo thông lệ quản trị đầu tư công hiện đại, mô hình Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành ra đời nhằm tập trung hóa đầu mối quản lý, chuyên nghiệp hóa quy trình, bảo đảm tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước.

Về chức năng, Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành thực hiện ba nhóm chức năng cốt lõi: (1) Chức năng đại diện chủ đầu tư, chịu trách nhiệm toàn diện trong quản lý các dự án đầu tư xây dựng: lập, trình thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi; tổ chức lựa chọn nhà thầu; quản lý tiến độ, chất lượng, khối lượng, hợp đồng và chi phí; nghiệm thu, thanh toán, quyết toán dự án hoàn thành; và tổ chức bảo hành, bảo trì công trình theo quy định pháp luật. (2) Chức năng quản lý kỹ thuật - chuyên môn, bao gồm kiểm soát thiết kế, tiêu chuẩn vật liệu, điều kiện thi công; áp dụng các công cụ quản lý tiên tiến (như BIM, hệ thống thông tin quản lý dự án, cơ sở dữ liệu hợp đồng); bảo đảm tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật chuyên ngành gắn với lĩnh vực quản lý của bộ, ngành chủ quản. (3) Chức năng điều phối và kết nối giữ vai trò trung tâm trong phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các sở ngành, đơn vị tư vấn, nhà thầu và các tổ chức liên quan khác nhằm bảo đảm sự đồng bộ, liên thông và liền mạch trong quá trình triển khai dự án.

Vai trò của Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành thể hiện nổi bật trên những khía cạnh cơ bản sau:

Thứ nhất, Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành là công cụ quan trọng giúp Nhà nước nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư công, đặc biệt trong bối cảnh quy mô vốn, số lượng dự án và yêu cầu chất lượng hạ tầng tăng. Việc chuyên nghiệp hóa đội ngũ và quy trình quản lý giúp giảm thiểu rủi ro chậm tiến độ, đội vốn và sai phạm trong quá trình thực hiện dự án.

Thứ hai, Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành tạo ra tính liên tục và ổn định tổ chức, khắc phục hạn chế của mô hình Ban Quản lý dự án theo từng dự án, vốn dễ bị gián đoạn khi dự án kết thúc hoặc khi có biến động nhân sự. Sự ổn định của bộ máy giúp duy trì kinh nghiệm, tích lũy tri thức và nâng cao chất lượng quản trị của ngành.

Thứ ba, mô hình Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, thông qua quy trình phân cấp - phân quyền rõ ràng, hệ thống kiểm soát nội bộ, cơ chế đánh giá kết quả đầu ra và giám sát độc lập. Điều này phù hợp với yêu cầu của Luật Đầu tư công năm 2024 và Nghị định số 85/2025/NĐ-CP ngày 8-4-2025 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của luật đầu tư công và Nghị định 254/2025/NĐ-CP ngày 26-9-2025 bổ sung, cập nhật quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án vốn đầu tư công về tăng cường kiểm soát dòng vốn đầu tư công.

Thứ tư, Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành đóng vai trò điều phối liên ngành, đặc biệt quan trọng trong các lĩnh vực có tính chất phức tạp, thẩm quyền rộng hoặc yêu cầu phối hợp giữa nhiều cơ quan như giao thông vận tải, xây dựng, y tế, công an, quốc phòng và đối ngoại.

Trong lĩnh vực đối ngoại, vai trò của Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành càng trở nên đặc thù và quan trọng. Các dự án của Bộ Ngoại giao được triển khai trên nhiều địa bàn quốc tế, chịu sự chi phối của pháp luật sở tại, yêu cầu về an ninh - đối ngoại, yêu cầu bảo mật, tiêu chuẩn kỹ thuật khác biệt, ngôn ngữ - văn hóa đa dạng và chi phí phát sinh ngoài khung định mức xây dựng trong nước. Do đó, mô hình Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành không chỉ đáp ứng yêu cầu về mặt pháp lý mà còn là công cụ cần thiết để bảo đảm hiệu quả, an toàn và chuẩn mực ngoại giao trong bối cảnh hội nhập sâu rộng.

Về cơ sở lý luận

Theo lý luận quản trị công hiện đại, việc tổ chức bộ máy quản lý đầu tư xây dựng theo hướng chuyên nghiệp hóa, tập trung và có tính liên ngành là yếu tố quyết định đối với hiệu quả quản trị dự án. Tại Việt Nam, chủ trương đổi mới mô hình quản lý dự án đầu tư công được thể chế hóa trong Luật Đầu tư công năm 2024, trong đó nhấn mạnh yêu cầu “đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền trong quản lý đầu tư, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả sử dụng vốn nhà nước” (Điều 18).

Trên phương diện lý luận hành chính, việc hình thành Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành không chỉ mang ý nghĩa tổ chức kỹ thuật mà còn là biểu hiện của đổi mới mô hình quản trị nhà nước theo hướng quản trị dựa trên năng lực - trong đó năng lực, tính ổn định và sự kế thừa của tổ chức quản lý được xem là yếu tố then chốt để bảo đảm chất lượng đầu tư và hiệu quả dài hạn của dự án.

Cơ sở pháp lý cho việc thành lập và vận hành Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành của Bộ Ngoại giao được hình thành trên nền tảng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, thể hiện xu hướng nhất quán của Nhà nước trong chuyên nghiệp hóa công tác quản lý đầu tư công. Luật Đầu tư công năm 2024 và Nghị định số 85/2025/NĐ-CP quy định rõ trách nhiệm của cơ quan chủ quản trong tổ chức, phân cấp và phân quyền quản lý dự án, đồng thời cho phép thành lập đơn vị chuyên trách nhằm bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn và tnâng cao năng lực điều hành. Luật Xây dựng năm 2020 quy định chủ đầu tư được phép thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành nhằm đáp ứng yêu cầu năng lực khi dự án có quy mô lớn hoặc tính chất kỹ thuật phức tạp, đặt nền tảng trực tiếp cho việc tổ chức bộ máy quản lý trong lĩnh vực đối ngoại.

Nghị định số 175/2024/NĐ-CP tiếp tục cụ thể hóa yêu cầu này khi quy định các dự án nhóm B trở lên hoặc có yêu cầu kỹ thuật đặc biệt phải được quản lý thông qua Ban Quản lý dự án chuyên ngành hoặc khu vực, qua đó khẳng định mô hình Ban Quản lý dự án là cấu phần bắt buộc trong hệ thống quản trị đầu tư công hiện đại. Đồng thời, Luật Ngân sách nhà nước quy định việc quản lý và sử dụng vốn phải bảo đảm công khai, minh bạch, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ, tạo hành lang pháp lý để Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành thực hiện giải ngân, theo dõi và quyết toán theo đúng chuẩn mực tài chính công.

Đáng chú ý, Nghị định số 120/2020/NĐ-CP về thành lập, tổ chức lại và giải thể đơn vị sự nghiệp công lập là căn cứ pháp lý trực tiếp để Bộ Ngoại giao xây dựng đề án thành lập Ban Quản lý dự án chuyên ngành phù hợp với tính chất là đơn vị sự nghiệp công lập có thu, đảm nhận nhiệm vụ đặc thù trong lĩnh vực đối ngoại. Bên cạnh đó, Quyết định số 1435/QĐ-BNG ngày 12-7-2022 của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao - ban hành quy trình quản lý dự án đầu tư của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài - đã bước đầu xác lập khuôn khổ nghiệp vụ nội bộ, đồng thời cho thấy sự cần thiết phải có một cơ quan chuyên trách để bảo đảm sự thống nhất, liên tục và chuyên nghiệp trong quản lý các dự án của ngành Ngoại giao.

Kinh nghiệm thực tiễn tại một số bộ, ngành trong nước

Trong khu vực hành chính trung ương, nhiều bộ, ngành của Việt Nam đã tiến hành thành lập Ban Quản lý dự án chuyên ngành nhằm nâng cao hiệu quả điều hành, tiêu biểu:

Bộ Xây dựng thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành công trình dân dụng và công nghiệp, các ban quản lý dự án chuyên ngành giao thông có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, trực thuộc Bộ. Ban này đảm nhiệm toàn bộ các dự án trọng điểm thuộc Bộ, từ khâu chuẩn bị đầu tư đến bàn giao công trình, giúp giảm phân tán đầu mối và nâng cao năng lực kỹ thuật, giám sát. Tổ chức hệ thống, được phân cấp rõ ràng về thẩm quyền, trách nhiệm, có đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên sâu, áp dụng quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế FIDIC. Do vậy, các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia như: cao tốc Bắc - Nam, sân bay Long Thành... đã được kiểm soát chặt chẽ và đẩy nhanh giải ngân.

Bộ Công an cũng đã thành lập Ban Quản lý dự án chuyên ngành Công an, nhằm thống nhất quản lý các công trình trọng yếu, đặc biệt là các dự án trụ sở và hạ tầng kỹ thuật phục vụ công tác an ninh - đối ngoại. Mô hình này bảo đảm quản lý xuyên suốt từ nguồn vốn đến hồ sơ pháp lý, qua đó nâng cao tính bí mật, hiệu quả và kỷ luật tài chính trong quá trình triển khai dự án.

Những dẫn chứng trên cho thấy xu hướng thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành là tất yếu trong quá trình hiện đại hóa quản trị đầu tư công. Đây không chỉ là yêu cầu mang tính tổ chức hành chính mà còn là bước chuyển đổi tư duy quản lý - từ “hành chính hóa” sang “chuyên nghiệp hóa” trong hoạt động đầu tư xây dựng thuộc các bộ, ngành trung ương.

2.2. Thực trạng và yêu cầu đặt ra đối với việc thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành Bộ Ngoại giao

Thực trạng tổ chức và quản lý đầu tư xây dựng trong Bộ Ngoại giao hiện nay

Giai đoạn 2015 - 2025, Bộ Ngoại giao được giao quản lý và tổ chức thực hiện nhiều dự án đầu tư xây dựng, bao gồm trụ sở các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, các công trình phục vụ đối ngoại trong nước, hạ tầng kỹ thuật và các dự án cải tạo, nâng cấp phục vụ nhiệm vụ ngoại giao. Mặc dù tổng mức đầu tư không lớn, các dự án lại trải rộng trên nhiều châu lục và phải tuân thủ đồng thời pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại cùng các điều ước quốc tế liên quan. Tính chất đa quốc gia của môi trường pháp lý - kỹ thuật đòi hỏi năng lực quản lý ổn định, liên tục, có tính kế thừa cao, đồng thời phải xử lý hiệu quả các phát sinh phức tạp về ngoại giao, pháp lý, chi phí và rủi ro.

Hiện nay, mô hình quản lý đầu tư xây dựng trong Bộ Ngoại giao còn phân tán, chưa có một đầu mối chuyên nghiệp và thống nhất. Theo Quyết định số 1433/QĐ-BNG và 1435/QĐ-BNG ngày 12-7-2022, Cục Quản trị Tài vụ thuộc Bộ Ngoại giao được giao làm đại diện chủ đầu tư, chủ yếu đối với các dự án trong nước và các công đoạn hồ sơ nội bộ. Đối với các dự án ở nước ngoài, cơ quan đại diện Việt Nam tại nước sở tại được giao trực tiếp thực hiện nhiều khâu quan trọng trong quản lý dự án theo Nghị định số 104/2018/NĐ-CP (ngày 8-8-2018 quy định chi tiết một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài), từ làm việc với chính quyền sở tại, lựa chọn nhà thầu đến giám sát thi công, nghiệm thu và xử lý tranh chấp. Sự phân tán này khiến trách nhiệm giải trình không tập trung, năng lực kỹ thuật giữa các đơn vị không đồng đều, cơ chế phối hợp thiếu thống nhất và khó bảo đảm tính liên tục khi cán bộ thường xuyên luân chuyển công tác theo nhiệm kỳ 3 năm.

Bên cạnh đó, năng lực quản lý đầu tư công tại các cơ quan đại diện còn nhiều hạn chế do cán bộ luân chuyển theo nhiệm kỳ, không có bộ phận kỹ thuật chuyên sâu và có kinh nghiệm về đấu thầu quốc tế, quản lý hợp đồng FIDIC, EPC, EPCM hay kiểm soát chi phí trong điều kiện thị trường nước ngoài. Nhiều dự án trọng điểm bị kéo dài thêm 3-5 năm so với kế hoạch; việc điều chỉnh thiết kế, tổng mức đầu tư hoặc thay đổi nhà thầu cũng diễn ra phức tạp do thiếu đầu mối kỹ thuật có kinh nghiệm trong môi trường quốc tế. Ngoài ra, sức khác biệt giữa hồ sơ pháp lý của dự án ở nước ngoài với chuẩn mực trong nước khiến quá trình thẩm định và thi công bị kéo dài.

Cơ chế quản lý dự án hiện nay của Bộ Ngoại giao vì vậy vừa thiếu tập trung, vừa chưa đáp ứng yêu cầu chuyên nghiệp hóa, khi phần lớn nhiệm vụ chuyên môn về đầu tư xây dựng vẫn do các đơn vị kiêm nhiệm hoặc các cơ quan đại diện thực hiện bằng cách “tự xoay sở” theo điều kiện thực tế. Điều này dẫn tới tình trạng thiếu thống nhất trong quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật, quản lý tiến độ - chi phí, năng lực đàm phán hợp đồng quốc tế còn hạn chế và khó kiểm soát được rủi ro.

Khi nhu cầu đầu tư cơ sở vật chất đối ngoại tăng nhanh, đặc biệt với yêu cầu hiện đại hóa trụ sở cơ quan đại diện, nâng cấp cơ sở hạ tầng lễ tân - đối ngoại và đầu tư các dự án trọng điểm phục vụ phát triển ngoại giao toàn diện, mô hình tổ chức hiện nay không còn đáp ứng yêu cầu quản trị đầu tư công. Việc thành lập một Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành Bộ Ngoại giao trở thành yêu cầu tất yếu, nhằm tập trung hóa đầu mối quản lý, chuyên nghiệp hóa quy trình, tích lũy kinh nghiệm và bảo đảm triển khai dự án xuyên suốt, không bị gián đoạn bởi luân chuyển cán bộ hay khác biệt pháp lý giữa các quốc gia.

Yêu cầu đặt ra đối với việc thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành Bộ Ngoại giao

Việc thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành Bộ Ngoại giao trong giai đoạn 2025 - 2030 đáp ứng các yêu cầu sau:

Thứ nhất, yêu cầu về thể chế và pháp lý

Việc thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành Bộ Ngoại giao phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, đặc biệt là các quy định của Luật Đầu tư công năm 2024, Luật Xây dựng năm 2020 và các nghị định về tổ chức quản lý dự án, phân cấp thẩm quyền. Mô hình tổ chức cần được thiết kế với tư cách pháp nhân đầy đủ, có con dấu, tài khoản và thẩm quyền ký kết hợp đồng để có thể hoạt động độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tiến độ, chất lượng và chi phí. Đồng thời, thẩm quyền thành lập Ban phải được xác định rõ theo quy định của Chính phủ và Bộ Nội vụ, bảo đảm không trùng lặp chức năng và tránh chồng chéo trong quản lý.

Đáng chú ý, lĩnh vực ngoại giao có tính chất đặc thù khi các dự án đầu tư trải rộng trên lãnh thổ nhiều quốc gia, chịu sự chi phối đồng thời của pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương mà Việt Nam là thành viên. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải hoàn thiện cơ sở pháp lý mang tính chuyên biệt cho hoạt động đầu tư xây dựng ở nước ngoài, bao gồm hệ thống văn bản hướng dẫn về đàm phán, ký kết và thực thi các thỏa thuận quốc tế liên quan đến thủ tục xây dựng, cấp phép, đấu thầu, thuế, hợp đồng và giải quyết tranh chấp. Các quy định này cần làm rõ cơ chế phối hợp giữa Bộ Ngoại giao với các bộ, ngành trong nước, với cơ quan đại diện tại nước sở tại cũng như với chính quyền và cơ quan chuyên môn của nước tiếp nhận. Một khung pháp lý ổn định và đồng bộ sẽ tạo điều kiện để Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành vận hành hiệu quả, đồng thời bảo đảm tính liên tục, minh bạch và khả năng kiểm soát rủi ro trong toàn bộ vòng đời dự án.

Thứ hai, yêu cầu về tổ chức bộ máy

Mô hình tổ chức của Ban cần tinh gọn, chuyên nghiệp nhưng đủ năng lực để quản lý các dự án trong và ngoài nước. Về nhân sự, cần có đội ngũ cán bộ có chứng chỉ hành nghề về quản lý dự án, giám sát, định giá, tư vấn đấu thầu theo chuẩn quốc gia và quốc tế. Việc bố trí cán bộ cần tuân thủ nguyên tắc chuyên nghiệp, ổn định, có cơ chế luân chuyển hợp lý giữa các dự án trong nước và nước ngoài để bảo đảm tính kế thừa và nâng cao hiệu quả vận hành.

Thứ ba, yêu cầu về mô hình quản trị và tài chính

Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành nên tổ chức theo mô hình đơn vị sự nghiệp công tự chủ một phần tài chính, có hệ thống kiểm soát nội bộ và thực hiện báo cáo định kỳ với Bộ. Công tác quản lý tài chính phải tuân thủ các quy định của Chính phủ về thanh toán, quyết toán vốn đầu tư công, đồng thời chịu sự giám sát độc lập của Kiểm toán Nhà nước.

Thứ tư, yêu cầu về gắn kết với định hướng đối ngoại và quảng bá quốc gia

Các dự án đầu tư xây dựng của Bộ Ngoại giao không chỉ mang giá trị vật chất mà còn có ý nghĩa đối ngoại, văn hóa và biểu tượng quốc gia. Do đó, cần tích hợp mục tiêu ngoại giao văn hóa và ngoại giao công trình ngay từ giai đoạn thiết kế đến triển khai dự án, tương tự như mô hình “Embassy Infrastructure Program” của Nhật Bản và Hàn Quốc, coi hạ tầng ngoại giao là một cấu phần của sức mạnh mềm quốc gia. Các cơ quan đại diện không chỉ là trụ sở làm việc, mà còn được thiết kế như biểu tượng vật chất mang hình ảnh quốc gia, thể hiện trình độ phát triển, năng lực quản trị, bản sắc văn hóa cũng như mức độ coi trọng quan hệ song phương của Việt Nam đối với nước sở tại.

Thứ năm, yêu cầu về trách nhiệm giải trình và minh bạch

Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành chịu trách nhiệm trực tiếp trước Bộ trưởng Bộ Ngoại giao về tiến độ, chất lượng, chi phí và hiệu quả dự án; đồng thời thực hiện công khai, báo cáo thường niên về tình hình đầu tư, giải ngân theo chỉ đạo tại Công điện số 169/CĐ-TTg ngày 21-9-2025 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công.

Đặc biệt, công tác quản lý các dự án đầu tư xây dựng của Bộ Ngoại giao có những tính chất khác biệt cơ bản so với các bộ, ngành trong nước, do phần lớn dự án được triển khai ở nước ngoài và gắn trực tiếp với chủ quyền, hình ảnh và an ninh quốc gia. Trước hết, môi trường pháp lý đa tầng (gồm pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại, điều ước quốc tế và tập quán ngoại giao) đòi hỏi Ban Quản lý dự án phải có năng lực pháp lý quốc tế đủ mạnh, chủ động phối hợp với các bộ, ngành như Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính và Bộ Công an để xử lý các vấn đề về cấp phép xây dựng, bảo hộ pháp lý, thuế, an ninh công trình, đấu thầu và hợp đồng.

Bên cạnh đó, việc triển khai dự án ở nước ngoài đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại giao với cơ quan đại diện Việt Nam tại nước sở tại, đồng thời duy trì quan hệ làm việc trực tiếp với chính quyền địa phương, đơn vị thẩm định, cơ quan quản lý xây dựng, các nhà thầu và tổ chức tư vấn sở tại. Tính chất song trùng trong quản lý - vừa tuân thủ quy định nội luật Việt Nam, vừa đáp ứng yêu cầu pháp lý của nước tiếp nhận - tạo ra mức độ phức tạp cao mà chỉ mô hình Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành mới có thể đáp ứng một cách hiệu quả.

Không chỉ chịu ràng buộc về pháp lý, các công trình ngoại giao còn chứa đựng giá trị biểu tượng văn hóa và ngoại giao đặc thù, do đó yêu cầu thiết kế và thi công phải thể hiện được bản sắc Việt Nam, sự trang trọng, chuẩn mực lễ tân quốc tế, đồng thời phù hợp với điều kiện văn hóa - kiến trúc của nước sở tại. Điều này đòi hỏi Ban Quản lý dự án phải có năng lực thẩm định thiết kế theo hướng “ngoại giao công trình”, làm việc hiệu quả với các kiến trúc sư quốc tế, đồng thời tham khảo ý kiến các đơn vị như Cục Lễ tân Nhà nước và Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài.

Một yêu cầu đặc thù khác là bảo đảm an ninh - an toàn - bảo mật, bao gồm an ninh khuôn viên, an toàn kết cấu, chống nghe lén, bảo mật thông tin và tuân thủ các tiêu chuẩn an ninh ngoại giao. Các dự án trụ sở cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thường phải đáp ứng mức tiêu chuẩn an toàn cao hơn so với công trình dân dụng thông thường. Do đó, mô hình Ban Quản lý dự án chuyên ngành cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Cục Cơ yếu, các cơ quan an ninh nước sở tại và các nhà thầu chuyên ngành, nhằm kiểm soát rủi ro xuyên biên giới và bảo đảm an ninh quốc gia tại các điểm đặt cơ quan đại diện.

Như vậy, tính chất đặc thù của hoạt động đầu tư xây dựng trong lĩnh vực đối ngoại - đa pháp lý, đa văn hóa, đa rủi ro và gắn với nhiệm vụ bảo hộ, đại diện quốc gia - là cơ sở quan trọng khẳng định sự cần thiết phải thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành có năng lực chuyên sâu, thẩm quyền đầy đủ và cơ chế phối hợp liên ngành, liên quốc gia linh hoạt và hiệu quả.

2.3. Giải pháp hoàn thiện khung pháp lý và mô hình tổ chức Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành Bộ Ngoại giao

Một là, nhóm giải pháp về hoàn thiện khung pháp lý và thể chế quản lý

Trước hết, cần xây dựng nền tảng pháp lý đầy đủ, đồng bộ và chuyên biệt cho việc thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành Bộ Ngoại giao. Theo Điều 38 Luật Đầu tư công năm 2024 và Nghị định số 85/2025/NĐ-CP, Nghị định số 175/2024/NĐ-CP của Chính phủ, các bộ, ngành trung ương được phép thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành trực thuộc để quản lý thống nhất các dự án nhóm A, B, C sử dụng vốn đầu tư công. Trên cơ sở khung pháp lý này, Bộ Ngoại giao cần ban hành quyết định thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành; đồng thời, cần rà soát và điều chỉnh các quyết định nội bộ của Bộ (Quyết định số 1433/QĐ-BNG ngày 12-7-2022, 1435/QĐ-BNG ngày 12-7-2022 và 3492/QĐ-BNG ngày 7-12-2023) nhằm thống nhất chức năng của Ban Quản lý dự án và các đơn vị hiện có, tránh chồng chéo hoặc bỏ trống trách nhiệm trong quản lý đầu tư.

Ngoài ra, Bộ cần sớm ban hành quy chế phối hợp nội bộ trong quản lý đầu tư xây dựng, quy định rõ quy trình thẩm định, phê duyệt, giám sát, nghiệm thu và bàn giao công trình, bảo đảm tuân thủ đầy đủ Luật Xây dựng năm 2020 và hướng dẫn của Bộ Xây dựng tại Công văn số 1853/BXD-HĐXD ngày 27-5-2022 về việc ý kiến hướng dẫn thực hiện Nghị định số 175/2024/NĐ-CP.

Hai là, nhóm giải pháp về mô hình tổ chức và cơ cấu bộ máy của Ban Quản lý dự án

Theo kinh nghiệm của Bộ Xây dựng, mô hình tổ chức Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành cần bảo đảm nguyên tắc tinh gọn - chuyên nghiệp - hiệu quả - gắn kết chặt chẽ với chủ đầu tư.

Đề xuất mô hình cơ cấu như sau:

Ban Giám đốc: Gồm giám đốc và 2-3 phó giám đốc, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Giám đốc ban do Bộ trưởng bổ nhiệm, có năng lực quản lý dự án hạng I, có kinh nghiệm trong các dự án đối ngoại hoặc hạ tầng quốc tế.

Các phòng chức năng: Phòng Kế hoạch - Tổng hợp; Kỹ thuật - Dự toán; Quản lý dự án; Tài chính - Kế toán; An ninh - Đối ngoại.

Bộ máy trên vừa bảo đảm tính chuyên sâu theo lĩnh vực, vừa gắn kết xuyên suốt giữa các khâu đầu tư trong và ngoài lãnh thổ, tạo sự thống nhất về kỹ thuật, pháp lý, và tài chính.

Ba là, nhóm giải pháp về quy trình quản lý, điều hành và ứng dụng công nghệ

Để nâng cao hiệu quả thực thi, Ban Quản lý dự án chuyên ngành Bộ Ngoại giao cần xây dựng quy trình quản lý đồng bộ từ khâu chuẩn bị đầu tư đến bàn giao, khai thác, gắn với chuyển đổi số trong quản lý.

Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Áp dụng hệ thống quản lý hồ sơ điện tử, cập nhật tiến độ trên phần mềm Hệ thống quản lý đầu tư công của Bộ Tài chính.

Giai đoạn thực hiện: Tích hợp mô hình thông tin công trình (BIM) để theo dõi chi phí, tiến độ, chất lượng, và quản lý thay đổi trong quá trình thi công (Bộ Xây dựng, 2021).

Giai đoạn nghiệm thu và bàn giao: Thực hiện giám sát độc lập, kết hợp giám sát của Kiểm toán Nhà nước, Bộ Ngoại giao và cơ quan tài chính.

Giai đoạn vận hành: Tạo cơ sở dữ liệu thống nhất về hồ sơ công trình, giúp rút ngắn thời gian bảo trì, sửa chữa, tái đầu tư.

Ngoài ra, Ban cần sớm xây dựng quy trình quản lý dự án thống nhất làm chuẩn nội bộ, đồng thời ứng dụng chữ ký số và công nghệ blockchain để lưu trữ hồ sơ pháp lý, tăng cường tính bảo mật và truy xuất nguồn gốc thông tin - điều này đặc biệt quan trọng đối với các công trình ngoại giao có yếu tố an ninh.

Bốn là, nhóm giải pháp về cơ chế tài chính, giám sát và trách nhiệm giải trình

Theo Luật Đầu tư công năm 2024 và Nghị định số 85/2025/NĐ-CP, các Ban Quản lý dự án chuyên ngành được phép tự chủ một phần tài chính, trích chi phí quản lý dự án từ tổng mức đầu tư được phê duyệt. Cơ chế tài chính của Ban Quản lý dự án chuyên ngành Bộ Ngoại giao cần được thiết kế theo hướng: (i) Tự chủ chi thường xuyên tương tự hoạt động tài chính của đơn vị sự nghiệp công, bảo đảm ổn định hoạt động và thu hút nhân sự chất lượng cao; (ii) Kinh phí hoạt động được trích tối đa 2% tổng chi phí quản lý dự án, theo hướng dẫn của Bộ Tài chính và Bộ Xây dựng; (iii) Báo cáo tài chính định kỳ 6 tháng/lần, gửi Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính và Kiểm toán Nhà nước.

Việc thành lập Ban Quản lý dự án chuyên ngành sẽ giúp Bộ Ngoại giao tăng năng lực điều phối, rút ngắn thời gian phê duyệt, nâng cao tốc độ giải ngân - góp phần thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Chính phủ và Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về đổi mới quản trị đầu tư công, thúc đẩy ngoại giao kinh tế.

2.4. Kiến nghị chính sách

(1) Đối với Thủ tướng Chính phủ

Cho phép Bộ Ngoại giao thí điểm thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành theo quy định tại Điều 38 Luật Đầu tư công năm 2024 và Nghị định số 85/2025/NĐ-CP.

Giao Bộ Nội vụ (nay là cơ quan quản lý nhà nước về tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập) chủ trì, phối hợp Bộ Ngoại giao và Bộ Xây dựng, hướng dẫn cụ thể mô hình tổ chức, chức năng, biên chế và cơ chế tài chính của Ban Quản lý dự án.

Chỉ đạo các bộ, ngành liên quan phối hợp rà soát, loại bỏ các quy định chồng chéo, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật về đầu tư công và xây dựng.

(2) Đối với Bộ Tài chính

Ban hành hướng dẫn chi tiết về quản lý vốn đầu tư công dành cho các dự án có yếu tố đặc thù về an ninh, đối ngoại bao gồm cơ chế giải ngân, thanh toán, quyết toán riêng.

Thiết lập cơ chế phân bổ vốn trung hạn ổn định cho Bộ Ngoại giao gắn với lộ trình xây dựng hạ tầng ngoại giao trọng điểm giai đoạn 2026 - 2030.

Cho phép Bộ Ngoại giao được áp dụng cơ chế tự chủ tài chính từng phần đối với Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành, trên cơ sở quy định tại Nghị định số 60/2021/NĐ-CP.

(3) Đối với Bộ Xây dựng

Phối hợp Bộ Ngoại giao xây dựng “hướng dẫn kỹ thuật riêng” cho các công trình ngoại giao có yếu tố quốc tế, trong đó bao gồm yêu cầu về thiết kế, tiêu chuẩn an toàn, phòng cháy, chữa cháy, công nghệ xanh và bảo mật thông tin.

Hỗ trợ đào tạo, cấp chứng chỉ hành nghề quản lý dự án, giám sát thi công, định giá cho cán bộ thuộc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành của Bộ Ngoại giao sau khi ban được thành lập.

Cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về Ban Quản lý dự án để tạo điều kiện trao đổi, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm quản lý.

(4) Đối với Bộ Ngoại giao

Rà soát và hợp nhất các Quyết định số. 1433, 1435, 2012, 3492/QĐ-BNG thành “Quy chế quản lý đầu tư xây dựng của Bộ Ngoại giao”, trong đó xác lập rõ vai trò trung tâm của Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành.

Thành lập Hội đồng thẩm định nội bộ về dự án đầu tư, giúp kiểm soát kỹ thuật và pháp lý trước khi trình cấp có thẩm quyền.

Xây dựng lộ trình chuyển đổi số trong quản lý đầu tư, áp dụng hệ thống BIM, GIS, chữ ký số, nhằm tăng cường tính minh bạch và bảo mật.

(5) Đối với các cơ quan kiểm toán và giám sát

Kiểm toán Nhà nước cần xây dựng cơ chế kiểm toán phù hợp với đặc thù của các dự án ngoại giao, vừa bảo đảm tính tuân thủ các quy định về tài chính, vừa giữ nguyên tắc bảo mật quốc gia.

Thanh tra Chính phủ phối hợp Bộ Ngoại giao ban hành quy trình thanh tra chuyên ngành đầu tư công trong lĩnh vực đối ngoại nhằm tránh trùng lặp và khuyến khích cơ chế giám sát nội bộ chủ động.

3. Kết luận

Việc thành lập Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành Bộ Ngoại giao là chủ trương cần thiết, đúng đắn và phù hợp với yêu cầu hoàn thiện tổ chức bộ máy, đồng thời bảo đảm đầy đủ cơ sở pháp lý và thực tiễn. Ban được thành lập sẽ tạo nền tảng để công tác quản lý các dự án đầu tư trong và ngoài nước được triển khai tập trung, minh bạch và hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng điều hành và tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực của ngành ngoại giao trong giai đoạn tới.

_________________

Ngày nhận bài: 21-10-2025; Ngày bình duyệt: 27-11-2025; Ngày duyệt đăng: 8-12-2025.

Email tác giả: quangthang.vu2021@gmail.com