Đào tạo - Bồi dưỡng

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng sáng tạo trong đột phá phát triển giáo dục và đào tạo hiện nay

12/12/2025 11:24

DOI: https://doi.org/10.70786/PTOJ.2629
(LLCT) - Bài viết tập trung làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo gồm: cách tiếp cận và vai trò, mục đích của giáo dục, đào tạo; giáo dục toàn dân, toàn diện; giáo dục và đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa, vừa “hồng” vừa “chuyên”; thực hành dân chủ trong giáo dục, đào tạo và vị trí, vai trò của nhà giáo, học sinh; phương châm, phương pháp giáo dục, đào tạo. Từ đó, đề xuất vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo; phương hướng thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo” theo Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị.

PGS, TS NGUYỄN THANH TUẤN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

TS NGUYỄN VĂN TRUNG

Trường Đại học Vinh

thquangantayho.edu.vn-upload-29470-fck-hni-tayho-thquangan-_z6919840912964_c9d2f3d3ce18b82b814198f051b32e2a.jpg
Học sinh trường Tiểu học Quảng An, Hà Nội_Ảnh: IT

1. Mở đầu

Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22-8-2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo xác định: “Trong bối cảnh thế giới có những thay đổi sâu sắc, toàn diện, đặc biệt công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đang tái định hình nền giáo dục trên phạm vi toàn cầu, mỗi quốc gia đều phải xác định lại tầm nhìn và chiến lược mới cho hệ thống giáo dục trong tương lai”(1). Bối cảnh mới đặt ra yêu cầu tăng cường nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục để khai thông những điểm nghẽn trong phát triển giáo dục, đào tạo nhằm tạo ra lớp người mới phát triển toàn diện, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, sức khỏe về thể chất và tinh thần, tương xứng với việc thực hiện 2 mục tiêu 100 năm của đất nước.

2. Nội dung

2. 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

Một là, về cách tiếp cận và vai trò, mục đích của giáo dục

Hồ Chí Minh xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu tư tưởng khai sáng châu Âu về dân quyền đã tiếp cận quyền là chủ - làm chủ của người dân về giáo dục, đào tạo thông qua “quyền tự do học tập” trong cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cụ thể, trong thời gian hoạt động cách mạng tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gửi Chính phủ Pháp một số “yêu sách khiêm tốn” về tự do, trong đó có “tự do học tập”(2).

Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (năm 1930) xác định: “Về phương diện xã hội là:... Phổ thông giáo dục theo công nông hóa”(3). Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ nạn dốt là “một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta”(4). Người yêu cầu “mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”(5) và ra “Lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học” (ngày 4-10-1945), vì “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”(6); “dốt thì dại, dại thì hèn”(7). Người yêu cầu phải có kế hoạch “kiến thiết giáo dục” để “thực hành giáo dục toàn dân”(8) nhằm “làm cho dân có học hành”(9), tốt nhất là “ai cũng được học hành”(10).

Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận và vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Đông, Tây, truyền thống Việt Nam về giáo dục và đã đạt đến giá trị phổ quát toàn nhân loại, nhằm góp phần xứng đáng vào việc thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục toàn dân và truyền bá văn hóa hòa bình.

Về vai trò, mục đích của giáo dục, Hồ Chí Minh kế thừa quan điểm của V.I.Lênin về “Học, học nữa, học mãi”, truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo và coi trọng hiền tài của cha ông ta, tư tưởng của Khổng Tử về: Học không biết chán, dạy người không biết mỏi - “Học nhi bất yếm, Giáo nhân bất quyện”.

Năm 1955, trong Bài nói chuyện tại Lớp nghiên cứu chính trị khóa 1, Trường Đại học nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng hạt nhân của việc học có thể tóm tắt trong 11 chữ: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân”(11). Như vậy, Người đã cải biến chữ “tân dân” thành “thân dân” và giải thích: …“minh minh đức là chính tâm, thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết”(12). Cách vận dụng sáng tạo của Người khiến cho lý tưởng vốn đã đẹp của Nho giáo trở nên bao quát hơn, vì trong nội hàm phục vụ nhân dân có làm mới nhân dân, và nhân văn hơn, thiết thực hơn. Thực ra tư tưởng phục vụ (phụng sự) nhân dân đã được Hồ Chí Minh nêu rõ trong dịp lễ khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945) là học để: Làm vẻ vang cho đất nước, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Trong lần về thăm Trường Đảng Nguyễn Ái quốc tháng 9-1949, Người đã ghi trên trang đầu Sổ vàng truyền thống của Nhà trường, nhấn mạnh mục đích học tập: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích thì phải cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư(13). Hơn 40 năm sau, vào giữa thập niên 1990, tư tưởng này của Người trở nên có tính thời sự, vì góp phần khai mở và kết nối thống nhất với triết lý giáo dục của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) về: Học để biết, học để làm, học để tồn tại, học để chung sống(14).

Mục đích học tập đó, theo Hồ Chí Minh là để: “Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(15).

Như vậy, trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước, phương hướng của sự nghiệp “trồng người” là tiếp tục phải giáo dục cho người học biết yêu nước, thương nòi, có lòng tự hào, tự tôn dân tộc, có ý chí tự lập, tự cường, trở thành những con người “hoàn toàn” vừa “hồng”, vừa “chuyên”, những người chủ tương lai của nước nhà. Với chủ trương đó, người học cần xác định rõ mục đích học là để: “Yêu Tổ quốc. Yêu nhân dân. Yêu lao động. Yêu khoa học. Yêu đạo đức: chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phác, hăng hái, cần kiệm… Học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh, tức là để làm tròn nhiệm vụ người chủ của nước nhà”(16).

Hai là, về giáo dục toàn dân, toàn diện

(1) Về giáo dục toàn dân: Việc “thực hành giáo dục toàn dân” là để “ai cũng được học hành”(17). Bởi vì “người lao động chân tay mà văn hóa kém, không biết lao động trí óc thì cũng là người không hoàn toàn, cũng chỉ được một nửa... Người trí thức phải biết làm lao động chân tay. Người công nhân, nông dân phải có trình độ văn hóa”(18).

(2) Về giáo dục toàn diện: Gồm thể dục, trí dục, mỹ dục, đức dục(19) và được Hồ Chí Minh quy vào hai phương diện cơ bản là “tài” và “đức”. Người nói rõ: “Có tài mà không có đức là hỏng. Có đức mà chỉ i, tờ thì dạy thế nào? Đức phải có trước tài”(20). Theo Người, việc thực hiện giáo dục phải phù hợp với mỗi thời kỳ, mỗi địa phương, mỗi bậc học. Chẳng hạn:

“- Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà.

- Trung học thì cần bảo đảm cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những thành phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế.

- Tiu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng, vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu”(21).

Trong thư gửi các thầy giáo, cô giáo và các em học sinh ngày 24-10-1955, Người chỉ rõ những nội dung giáo dục cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau làm nền tảng cho sự phát triển toàn diện các phẩm chất, năng lực của học sinh: “Đối với các em việc giáo dục gồm có: thể dục để làm cho thân thể khỏe mạnh; trí dục ôn lại những điều đã học, học thêm tri thức mới; mỹ dục để phân biệt cái đẹp, cái gì không đẹp; đức dục là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu của công (năm cái yêu)”(22).

Nội dung giáo dục tùy các cấp học, tập trung vào hai mảng là chính trị - đạo đức và tri thức - chuyên môn. Cụ thể:

(a) Giáo dục chính trị - đạo đức: Nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập phải đào tạo những công dân và cán bộ có lập trường chính trị vững vàng, có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang. Cán bộ và giáo viên phải tiến bộ cho kịp, không được bàng quan. Phải chú ý đến chính trị, tư tưởng. Giáo viên là cán bộ chuyên môn, “có chuyên môn mà không có chính trị giỏi thì dù học giỏi mấy dạy trẻ con cũng hỏng. Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn. Nếu thầy giáo, cô giáo bàng quan thì lại đúc ra một số công dân không tốt, cán bộ không tốt. Nói tóm lại, chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng. Có đức mà chữ i, tờ thì dạy thế nào? Đức phải có trước tài. Trước hết phải dạy trẻ yêu Tổ quốc, yêu lao động, yêu đồng bào và yêu chủ nghĩa xã hội”(23). Ở một cách nhìn nhận khác về đạo đức, Người viết: “Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa”(24).

Giáo dục chính trị trong nhà trường là giáo viên, cán bộ và người học phải tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch còn sót lại, như thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Phải xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhà trường phải gắn với thực tế của nước nhà, với đời sống của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, chính trị là đức. Giáo dục không chỉ có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ ở chỗ đức phải có trước tài, mà học cũng chính là để sửa chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin tưởng vào nhân dân, tương lai dân tộc và tương lai cách mạng.

Trên cơ sở đạo đức của thầy giáo, cô giáo, giáo dục đạo đức cho người học tùy từng cấp học, nhưng nhìn chung là phải có đức tính trong sạch, thật thà, tẩy sạch óc kiêu ngạo, tự phụ, hăng hái, cần kiệm, xóa vết tích nô lệ, xây tư tưởng và hành động làm chủ. Một cách tiếp cận khác, đức dục trong nhà trường là: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công. Các em cần rèn luyện đức tính thành thật và dũng cảm. Ở trường, thì kính thầy, yêu bạn, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau. Ở nhà, thì yêu kính và giúp đỡ bố mẹ. Ở xã hội, thì tùy sức mình mà tham gia những việc có ích lợi chung”(25).

Hồ Chí Minh luôn quan tâm sự thống nhất giữa đức và tài. Người chỉ rõ: “Dạy cũng như học phải hết sức chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân… Phải có chí khí cao thượng, phải “tiên ưu hậu lạc”, nghĩa là khó khăn thì chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ”(26).

(b) Giáo dục tri thức - chuyên môn: Khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ và các tri thức phổ thông khác là nội dung chuyên môn không thể thiếu trong giáo dục và đào tạo. Tất cả đều phải thiết thực, chu đáo, đúng nhu cầu, bám sát thực tế. Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ phải tẩy sạch ảnh hưởng của giáo dục nô dịch, giáo dục lại nhân dân, làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Giáo dục phải làm cho người dân hiểu biết quyền lợi của mình, có kiến thức tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, thực hiện đời sống mới; làm cho mỗi người dân Việt Nam trở thành một chiến sĩ trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Dạy cho dân biết vệ sinh để bớt đau ốm; thường thức khoa học để bớt mê tín, biết bốn phép tính để làm ăn có ngăn nắp; biết lịch sử và địa dư nước ta để nâng cao lòng yêu nước; biết đạo đức công dân để thành người công dân đúng đắn.

Giáo dục được xác định là một mặt trận quan trọng để đào tạo con người mới, con người toàn diện có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật, có ý thức và năng lực làm chủ, v.v.. Nội dung giáo dục còn phải chú trọng đến giáo dục thể chất, sức khỏe, thẩm mỹ. Tất cả nhằm xây dựng và phát triển con người toàn diện, con người “hoàn toàn”, những người chủ tương lai của đất nước để phục vụ Tổ quốc và nhân dân.

Ba là, về giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa, vừa hồng vừa chuyên

Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”(27). Việc thực hiện chiến lược “trồng người” là nhằm giáo dục được những công dân có lòng trung thành với Tổ quốc và nhân dân, không ngừng bồi dưỡng, trau dồi những phẩm chất đạo đức khiêm tốn, giản dị, trung thành, thật thà, chính trực, siêng năng, gan dạ, sáng tạo, có lòng yêu thương con người, có ý thức và tinh thần làm chủ tập thể “mình vì mọi người, mọi người vì mình”(28) và tinh thần quốc tế trong sáng. Đặc biệt, theo Người, trong việc giáo dục “thanh niên cần phải chống tâm lý tự tư, tự lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình”(31) nhằm “quét sạch” những căn bệnh do chủ nghĩa cá nhân sinh ra, như tham ô, lãng phí, quan liêu, vì đó chính là một “kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội”.

Bốn là, về thực hành dân chủ trong giáo dục, đào tạo và vị trí, vai trò của nhà giáo, học sinh

(1) Đối với thực hành dân chủ trong giáo dục: Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội, trong mọi vấn đề “thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt”(30), nhằm loại bỏ tình trạng “thầy không ra thầy, trò không ra trò”, bạo lực học đường, nhất là trước những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường đối với giáo dục, đào tạo hiện nay.

(2) Về vai trò của nhà giáo: Theo Hồ Chí Minh, “không có thầy giáo thì không có giáo dục”(31). “Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất... nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang; ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo, thì phải sửa chữa”(32). Trước hết, giáo viên cần áp dụng phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh, thay vì áp đặt một cách dạy chung chung, cứng nhắc. Việc dạy “vừa sức” giúp học sinh cảm thấy hứng thú, từ đó phát huy tính chủ động, sáng tạo, còn dạy quá sức, không phù hợp sẽ gây áp lực, không hứng thú trong học tập, do đó, sẽ không thể phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Người đặc biệt yêu cầu các “cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải có chí khí cao thượng, phải “tiên ưu hậu lạc” nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng”(33); “thầy và trò phải luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”(34); “dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”(35). “Thầy dạy tốt, trò học tốt, cung cấp đủ cán bộ cho nông nghiệp, công nghiệp, cho các ngành kinh tế và văn hóa. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của các thầy giáo, cô giáo”(36). Các thầy giáo, cô giáo phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ thì mới làm tốt được công việc huấn luyện của mình, mới thích ứng được với các đối tượng người học, thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.

(3) Về vai trò của học sinh: Người khích lệ học sinh chăm chỉ học tập để mai sau góp phần vào công cuộc kiến thiết đất nước: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn công học tập của các em”(37). Hiện nay, nổi lên vấn đề phải khắc phục cách học chỉ tập trung vào kiến thức, mà coi nhẹ giáo dục đạo đức, lối sống có văn hóa. Do vậy, phải giáo dục học sinh phát triển toàn diện bản thân; kiên quyết khắc phục tình trạng “trò không ra trò” trong quan hệ giữa trò và thầy, thầy và trò, giữa học trò với nhau; giáo dục đạo đức và các phẩm chất trí tuệ theo hướng dân chủ gắn với kỷ cương.

Năm là, về phương châm, phương pháp giáo dục

Theo Hồ Chí Minh, phương châm giáo dục là lý luận gắn với thực tiễn. “Học để hành: Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”(38). Việc vận dụng học đi đôi với hành là: “Ngoài cách học ở trường, ở lớp, học trên sách, báo,... có một cách học rất tốt ai cũng có thể tham gia hằng ngày. Đó là học tập ngay trong sản xuất, học tập những người, những tổ, những đơn vị tiên tiến”(39). Người nhấn mạnh: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ. Cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(40). Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; kết hợp nhà trường - gia đình - xã hội; giáo dục thường xuyên, học tập suốt đời; học mọi lúc, mọi nơi, mọi cách.

Phương pháp giáo dục, đào tạo là phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. “Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”(41); và “phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”(42). “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy phải học thêm”(43). Vì, “dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, mình tự đào thải mình trước”(44).

“Về giảng dạy, tránh lối nhồi sọ. Chương trình dạy học hiện nay còn có chỗ quá nhiều, quá nặng. Về học tập, tránh lối học như vẹt”(45). Người đề nghị cải cách chương trình nhằm làm cho việc giáo dục gắn với đời sống của nhân dân; phối hợp việc giáo dục của nhà trường với việc tuyên truyền và giáo dục chính trị nhân dân; và cần “phải sửa chương trình làm sao để học thì hành được ngay”(48).

2.2. Vận dụng tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh trong đột phá phát triển giáo dục và đào tạo hiện nay

Thứ nhất, nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng giáo dục, đào tạo của Hồ Chí Minh

(1) Về nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh: Để sự nghiệp giáo dục và đào tạo xứng đáng với vai trò là “quốc sách hàng đầu”, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, coi đổi mới căn bản, toàn diện, đột phá phát triển giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân; được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, cần làm rõ:

Một là, Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giáo dục trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân tại một nước thuộc địa và phong kiến ở châu Á, để gắn sự nghiệp “trồng người” với việc đấu tranh giành và bảo đảm thực hiện quyền độc lập, tự do của dân tộc nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Hai là, làm sáng tỏ và vận dụng sáng tạo tư tưởng “trồng người” của Hồ Chí Minh nhằm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, để phụng sự Tổ quốc, nhân dân và nhân loại.

Ba là, làm rõ tư tưởng: “không có thầy giáo thì không có giáo dục”; “thầy dạy tốt, trò học tốt là nhiệm vụ vẻ vang của các thầy giáo, cô giáo”; “giáo dục các em là việc chung của gia đình, của trường học và xã hội”; về “xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa” thông qua việc phát huy dân chủ, kỷ cương, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, thân ái…; và về coi trọng “sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân”; v.v….

(2) Về vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh

Theo Hồ Chí Minh, trong vận dụng, không thể “bê nguyên xi” lý luận, kinh nghiệm vào thực tiễn mới; tức là trong vận dụng luôn phải sáng tạo cho phù hợp với điều kiện mới, cụ thể là trong thực hiện các đột phá giáo dục, đào tạo hiện nay. Ở mức độ vận dụng, phải khẳng định ngay rằng, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta vận dụng các nội dung giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ giáo dục toàn dân, toàn diện; tự học, học suốt đời; học đi đôi với hành; huấn luyện cán bộ; đến “trồng người” hay giáo dục con người mới tiên tiến và xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa. Mặc dù trong thời kỳ đổi mới, chúng ta chủ yếu dùng tính ngữ “tiên tiến”, ít dùng tính ngữ “xã hội chủ nghĩa” trong giáo dục con người mới và xây dựng nhà trường tự chủ phù hợp với mỗi loại hình trường công lập, dân lập, tư thục, nhưng các thuộc tính của hai tính ngữ này cơ bản không chệch với tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tính sáng tạo của vận dụng trong đột phá phát triển giáo dục và đào tạo hiện nay là phải phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế dưới thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Về “phát triển sáng tạo”- được hiểu là hoạt động tạo ra kết quả có tính mới và tính hữu ích (theo phạm vi áp dụng cụ thể) phù hợp với điều kiện mới nhằm nâng cao về lượng và chất của hệ thống vật chất hay tinh thần (tư tưởng, giá trị,…) trong phát triển giáo dục, đào tạo, định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Phát triển sáng tạo, cơ bản là phương pháp tư duy, cách làm, nội dung chương trình có tính hướng đích do chính quyền hay cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo chủ trương tiến hành nhằm mục tiêu thực hiện một bước phát triển đột phá về chất lượng nhưng không làm thay đổi bản chất của nền giáo dục, đào tạo. Điểm giống nhau căn bản giữa vận dụng sáng tạo và phát triển sáng tạo là tính hướng đích và có thể kiểm soát được.

Thứ hai, về thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo(49)

Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh khi triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia này phải phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương và mỗi cấp học. Đây là chương trình nhằm tạo đột phá trong phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo; trong đó, tùy theo điều kiện của từng địa phương về cơ sở vật chất, tài chính và giáo viên với lộ trình thực hiện từng bước, sẽ thực hiện chủ trương các trường tiểu học, trung học cơ sở tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. Phương hướng là kết hợp Nhà nước đầu tư là chính với khuyến khích xã hội hóa. Việc dạy học 2 buổi/ngày không thu phí và giảm áp lực với học sinh bằng cách tăng cường dạy học về văn hóa, nghệ thuật để bảo đảm cho học sinh phát triển toàn diện.

Nhà nước hỗ trợ bữa ăn trưa cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở ở các xã biên giới; ưu tiên các xã biên giới miền núi (đối tượng bao gồm cả học sinh là người dân tộc thiểu số và học sinh là người dân tộc Kinh sinh sống tại các xã biên giới); các địa phương sẽ tập trung xây dựng, hoàn thiện các trường liên cấp nội trú, bán trú cho các xã biên giới, tạo thuận lợi cho việc học tập và sinh hoạt của học sinh, như: Có đủ phòng học, phòng thực hành thí nghiệm, có nước sinh hoạt, nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, có sân chơi, chỗ ở cho giáo viên; các xã biên giới giáp quốc gia nào thì cần dạy tiếng nước đó cho học sinh để sau này có điều kiện tăng cường giao lưu nhân dân với nước bạn;… Trên cơ sở kết quả thực hiện sẽ sơ kết để nhân rộng ra toàn quốc.

3. Kết luận

Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta hệ luận điểm có tính toàn diện, sâu sắc, phản ánh những tư tưởng cơ bản nhất trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Tư tưởng của Người vẫn vẹn nguyên giá trị, soi đường cho những đột phá phát triển giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị, mà trước hết phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhận thức và thể chế; tạo đột phá về nguồn lực, động lực và không gian mới cho phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng; bảo đảm Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, lấy đầu tư công dẫn dắt, thu hút nguồn lực xã hội cho hiện đại hóa toàn diện hệ thống giáo dục quốc dân.

_________________

Ngày nhận bài: 18-8-2025; Ngày bình duyệt: 25-10-2025; Ngày duyệt đăng: 7-12-2025.

Email tác giả:thanhtuanhcma@gmail.com

(1) Xem: https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-so-71-nq-tw-cua-bo-chinh-tri-ve-dot-pha-phat-trien-giao-duc-va-dao-tao-119250828110759964.htm

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 441.

(3), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Sđd, tr.1, 22.

(4), (5), (6), (9), (10), (17), (37) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr. 7, 7, 7, 175, 187, 187, 35.

(7), (11), (12), (18), (19), (21), (22), (25), (31), (36), (40) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.125, 377, 377, 592, 175, 186, 175, 175, 345, 291, 377.

(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.208.

(14) Xem: Bốn trụ cột là triết lý giáo dục của UNESCO http://dtntdienbien.dienbien.edu.vn/Tin-tuc/QUAN-DIEM-CUA-UNESCO-VE-BON-TRU-COT-CUA-GIAO-DUC-78.html .

(15), (24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.528, 399.

(16), (29), (30) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.178-179, 265, 266.

(20), (23), (39), (44) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 12, Sđd, tr. 269, 269, 527-528, 266.

(26), (32), (33), (34), (45) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.400 và tr.403, 402-403, 403, 507, 746.

(27), (28), (38), (42), (43) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.66, 66, 361, 360, 361.

(35) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.507.

(41), (46) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.235, 74.

(49) Xem: https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/thong-bao-ket-luan-cua-tong-bi-thu-to-lam-ve-chuan-bi-nghi-quyet-cua-bo-chinh-tri-ve-dot-pha-giao-duc-dao-tao-va-mot-so-chu-truong-ho-tro-day-va-hoc-