Chủ trương của Đảng về xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
(LLCT) - Trải qua hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong lãnh đạo tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta từng bước phát triển tư duy lý luận về xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Đảng ta đã xác định vấn đề xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, ngang hàng với nhiệm vụ kinh tế, chính trị trong quá trình xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhân dân tham gia Lễ hội cầu ngư ở Nghệ An - Ảnh: nhiepanhdoisong.vn
Xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng đối với mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội vì nó góp phần kiến tạo nền tảng tinh thần cho đất nước; tạo động lực, nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững đất nước và khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhận thức được tầm quan trọng này, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng văn hóa, con người Việt Nam. Đặc biệt là quá trình lãnh đạo thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay.
1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam
Giá trị, theo nghĩa chung nhất, là những gì được chúng ta coi là có giá trị, có ý nghĩa trong so sánh với những cái khác, hiện tượng khác(1), hoặc đó là quan niệm về những gì có “ảnh hưởng tới việc chọn các phương thức, phương tiện hoặc mục tiêu của hành động”(2).
Tuy nhiên, trên quan điểm triết học về giá trị, ít nhất có hai bình diện sau phải được xem xét: một vật “có giá trị” hay “mang giá trị” thuộc loại tính chất hay thuộc tính nào, và, có giá trị có phải là một vấn đề khách quan hay chủ quan, giá trị có nội tại trong sự vật hay là một vấn đề thuộc cảm nhận của chúng ta về vật đó(3). Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến hai vấn đề cốt lõi liên quan đến giá trị, đó là giá trị của đối tượng nghiên cứu và quan điểm về giá trị của người nghiên cứu.
Từ góc độ xã hội học, J.H.Fichter, nhà xã hội học Mỹ đã đưa ra khái niệm: Tất cả những gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với con người hoặc nhóm người đều là có một giá trị(4).
Theo một số nhà nghiên cứu Việt Nam, giá trị là những đánh giá của con người về các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó là cần, là tốt, là hay, là đẹp, hay đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Một khi những nhận thức giá trị ấy đã hình thành và định hình thì nó chi phối cách suy nghĩ, niềm tin, hành vi, tình cảm của con người(5).
Hệ giá trị bao gồm nhiều giá trị liên kết với nhau theo một hệ thống thứ bậc, đảm nhiệm các chức năng xã hội nhất định. Ba chức năng cơ bản của hệ giá trị là: Định hướng, Đánh giá, Điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Với chức năng định hướng, các giá trị chuẩn mực là căn cứ để xác định các giá trị cơ bản, có vai trò định hướng cho sự suy nghĩ và hành động của xã hội, hướng dẫn niềm tin của xã hội vào thực hiện các giá trị tích cực được tuyên bố, cổ vũ cho xã hội thực hiện và noi theo.
Chức năng đánh giá, với các giá trị được thể hiện, thông qua sự phán xét, xếp hạng của xã hội đối với từng cá nhân hay cộng đồng về quá trình thực hiện các giá trị được tuyên bố xem đúng hay sai và các mức độ thực hiện khác nhau.
Chức năng điều chỉnh, hệ giá trị chuẩn mực có ý nghĩa điều tiết các hành vi của cá nhân và xã hội thông qua các thể chế, thiết chế xã hội để hướng các hoạt động xã hội vào thực hiện các giá trị được xã hội thừa nhận, xử lý các hành vi lệch chuẩn với các định hướng giá trị này. Chức năng điều chỉnh có thể thông qua quá trình “tự ý thức”, tự phê bình và phê bình để từ đó tự sửa chữa; hoặc cũng có thể điều chỉnh bằng cưỡng bức thông qua luật pháp(6).
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các quốc gia, dân tộc, khu vực đều quan tâm nghiên cứu, xác định các giá trị khu vực, giá trị quốc gia làm biểu tượng chung cho khu vực và quốc gia mình.
Các hệ giá trị của khu vực hay hệ quốc gia được xây dựng đều dựa trên khát vọng, mong muốn chung của khu vực, quốc gia, phản ánh đặc trưng và bản sắc văn hóa, chẳng hạn như:
Hệ giá trị phương Tây được xác định 7 giá trị cốt lõi: (1) Công bằng và chính nghĩa (justice); (2) Quyền/quyền lợi (rights); (3) Bình đẳng (equality); (4) Tự do (Liberty/freedom); (5) Khoan dung (tolerantion); (6) Tự trị/tự lập (autonomy); (7) Dân chủ (democracy)(7).
Năm 2012, Ủy ban châu Âu đưa ra 5 giá trị được người dân châu Âu đề cao là: (1) Hòa bình; (2) Dân chủ; (3) Nhân quyền; (4) Tuân thủ pháp luật; (5) Tinh thần đoàn kết(8).
Ở châu Á, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra các giá trị châu Á nổi bật là: (1) Đề cao đức tính cần cù, yêu lao động; (2) Đề cao giá trị hiếu học; (3) Đề cao giá trị gia đình, huyết tộc; (4) Đề cao giá trị cộng đồng, trách nhiệm xã hội.
Hệ giá trị truyền thống Nhật Bản gồm 8 giá trị: (1) Đoàn kết; (2) Kỷ luật; (3) Nhẫn nại; (4) Trung thành; (5) Trách nhiệm; (6) Lịch sự; (7) Tự chủ; (8) Tránh làm phiền người khác. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Nhật Bản xác định 5 giá trị cốt lõi để hội nhập quốc tế: (1) Cộng sinh, cộng tồn; (2) Biết điều chỉnh bản thân; (3) Tư duy độc lập; (4) Biết sáng tạo cái mới; (5) Tôn trọng sự khác biệt(9).
Malaixia xác định 5 nguyên tắc quốc gia gồm: (1) Tin vào Thượng đế; (2) Trung thành với nhà vua và đất nước; (3) Tuân thủ hiến pháp; (4) Cai trị bằng pháp luật; (5) Hành vi tốt, đạo đức tốt(10).
2. Quan điểm của Đảng về xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Quá trình phát triển, hoàn thiện quan điểm của Đảng về hệ giá trị văn hóa, con người trong thời kỳ đổi mới gắn với quá trình đổi mới tư duy và tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước. Sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước đã có bước phát triển, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng còn chưa vững chắc trên một số mặt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, mọi người thi đua lao động sản xuất, xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, thực hiện nền kinh tế thị trường, văn hóa còn chưa bắt kịp sự tăng trưởng kinh tế. Một nghịch lý diễn ra là, chúng ta càng đi sâu vào nền kinh tế thị trường, người dân giàu lên nhưng trên lĩnh vực văn hóa lại bộc lộ những biểu hiện tiêu cực, lệch chuẩn mực đạo đức xã hội, cản trở công cuộc đổi mới toàn diện. Đó là biểu hiện của lối tư duy cũ, của cơ chế bao cấp, tác phong quan liêu, tiểu nông không phù hợp với đời sống công nghiệp, hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ trong xã hội. | Đại hội xác định nhiệm vụ tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới(26). Với chủ trương này, Đảng ta đã thể hiện sự phát triển nhận thức về hệ giá trị văn hóa, con người phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình thực tiễn mới của đất nước. |
Từ thực tế đó, Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đã nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của văn hóa và đặt vấn đề: “Hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”(11).
Với quan điểm chỉ đạo này, lần đầu tiên, Đảng ta đề ra nhiệm vụ xây dựng hệ giá trị, đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội tăng cường đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, biến chất, tha hóa, nhũng nhiễu trong xã hội, cản trở đổi mới; cổ vũ những nhân tố tích cực để xây dựng những giá trị và chuẩn mực xã hội mới nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Trong Văn kiện Đại hội, Đảng ta đã dành trọn mục V nêu nội dung xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nên văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức và tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội"(12).
Đây được coi là cương lĩnh văn hóa của Đảng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là cơ sở chính trị để cả hệ thống chính trị triển khai, tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến tích cực xây dựng đời sống văn hóa, hình thành những giá trị văn hóa mới.
Công cuộc xây dựng nền văn hóa mới là cuộc đấu tranh giữa cái tích cực, đúng đắn, tốt đẹp với cái tiêu cực, sai trái, lạc hậu, giáo điều, máy móc, tạo nên nếp nghĩ, thói quen mới và tình cảm, nhiệt huyết cách mạng để mỗi người đóng góp trí tuệ, công sức vì sự phát triển toàn diện con người và của xã hội. Văn hóa là một mặt trận không tiếng súng, chúng ta phải nhận thức sâu sắc tính phức tạp của nó để không chủ quan, nóng vội, kiên định với mục tiêu đặt ra. Đại hội đã chỉ ra nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa: “kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của các dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh làm thắng cảnh của đất nước”(13).
Đồng thời, Đảng ta đề ra nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa trong thời kỳ mới đó là: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam; đấu tranh chống sự thâm nhập các loại văn hóa độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường giá trị nhân văn”(14).
Tại Đại hội IX của Đảng (năm 2001), trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010, Đảng ta tiếp tục xác định nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mới là: “Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng cường sức đề kháng, chống văn hóa đồi trụy, độc hại”(15).
Như vậy, trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta đã cụ thể nội dung “hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới” nêu ở Đại hội VIII trở thành “hệ giá trị mới của con người Việt Nam”; đồng thời tiếp tục nhiệm vụ xây dựng, “hình thành hệ giá trị mới” trên một mức độ cao hơn là “hoàn thiện hệ giá trị mới”.
Năm 2004, Đảng ta tiến hành sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, ban hành Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khóa IX về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Kết luận khẳng định: “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”(16). Điều đó thể hiện nhận thức mới của Đảng ta về vai trò định hướng vô cùng quan trọng của xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam.
Tuy vậy, quá trình triển khai đường lối, chủ trương về phát triển văn hóa chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, nhất là việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế. Trước thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân, việc xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam vẫn chưa tạo được chuyển biến rõ rệt và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ thực tiễn trên, Hội nghị Trung ương 10 đã đề ra mục tiêu: “Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng. Báo chí, xuất bản... làm tốt chức năng tuyên truyền, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước...”(17).
Mục tiêu này đã khẳng định ý nghĩa quan trọng hàng đầu của việc nâng cao nhận thức và đưa ra phương pháp tiếp cận xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam, xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Xây dựng, hoàn thiện những giá trị mới của văn hóa Việt Nam không phải là đoạn tuyệt với quá khứ, truyền thống của văn hóa dân tộc, càng không phải là chối bỏ hội nhập vào dòng chảy của văn minh nhân loại. Xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam phải trên cơ sở của văn hóa dân tộc, làm cho các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc được bảo tồn và phát huy, đồng thời phải tranh thủ đón nhận tinh hoa văn hóa thế giới phù hợp với bối cảnh, điều kiện cụ thể của đất nước trong mỗi chặng đường phát triển.
Đại hội X của Đảng (năm 2006) xác định nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị nước ta: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”(18).
Văn kiện đã thể hiện rất rõ tư tưởng chỉ đạo của Đảng về ba vấn đề cốt lõi trong xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Đó là nhân cách con người, bản sắc văn hóa dân tộc và bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước bảo đảm sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”(19).
Như vậy, nhận thức của Đảng về xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam đã có những bước tiến, từ chỗ xác định nhiệm vụ “hình thành hệ giá trị mới” tới “hoàn thiện hệ giá trị mới”, nay là “đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung đối với con người Việt Nam”. Yêu cầu đúc kết là, trong thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam đã hiện diện những giá trị của con người Việt Nam, phải tổng kết, rút ra những giá trị chung nhất, cần thiết cho mỗi con người Việt Nam để các giá trị ấy thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Năm 2014, từ tổng kết quá trình 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, Đảng ta ban hành Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong đó xác định mục tiêu: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”(20).
Điểm mới ở mục tiêu này là xác định các chuẩn mực giá trị khi đề cập đến xây dựng các giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Bản thân văn hóa cũng như con người vừa là chủ thể sáng tạo vừa là sản phẩm của văn hóa trong đời sống hiện thực có rất nhiều biểu hiện giá trị.
Từ luận điểm quan trọng này, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã định hướng nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”(21).
Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các Văn kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày ngày 21-01-2006, đã đề ra: "Các cấp các ngành phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa, con người; phải thực hiện có kết quả mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến Chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hóa trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện"(22).
Từ thực tiễn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng đã ”đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Làm cho giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi hoạt động, mọi quan hệ xã hội, thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển bền vững”(23). Qua đó thấy được giá trị và sức mạnh nội sinh của hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam.
Từ đó, Đảng đề ra nhiệm vụ: "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa"(24).
3. Định hướng xây dựng các giá trị cốt lõi trong hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XIII
Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) diễn ra trong bối cảnh đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức đan xen, nhiều vấn đề mới đặt ra cần phải giải quyết. Từ tình hình quốc tế, khu vực, Đại hội dự báo diễn biến phức tạp, khó lường đến các thách thức mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả những thành tựu của khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến đời sống đất nước, Đảng đã đề ra phương hướng nhiệm vụ mới của sự nghiệp văn hóa trong thời kỳ mới: "Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ thiên tai, phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; quản lý khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên, chú trọng bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững"(25).
Đại hội xác định nhiệm vụ tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới(26). Với chủ trương này, Đảng ta đã thể hiện sự phát triển nhận thức về hệ giá trị văn hóa, con người phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình thực tiễn mới của đất nước. Đại hội đề ra các nhiệm vụ cụ thể:
Có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Đề cao vai trò gia đình trong nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý(27).
Tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả của các loại hình văn hóa, văn nghệ. Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế xã hội(28).
Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới. Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho thế hệ mai sau(29).
Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa. Tăng cường đầu tư, khai thác và phát huy tối đã các nguồn lực văn hóa đi đôi với đổi mới nội dung, phương thức quản lý, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả; tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực văn hóa(30)...
Đại hội XIII xác định phương hướng phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, đó là:
Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng môi trường văn hóa toàn diện ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế. Phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tự hào dân tộc, tính cộng đồng và khơi dậy khát vọng vươn lên.
Nâng cao vai trò của văn hóa, văn nghệ trong việc bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách của con người Việt Nam, nhất là trong thế hệ trẻ. Bảo đảm quyền hưởng thụ, tự do sáng tạo trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật của mỗi người dân và cộng đồng. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo, sáng tạo có sức lan tỏa để quảng bá, giới thiệu ra thế giới.
Phấn đấu sớm hoàn thành các mục tiêu theo Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Phát triển vì con người, tạo điều kiện cho mọi người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người di cư hòa nhập, tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện các chính sách dân tộc bình đẳng, dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn; tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030(31).
“Chủ động tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại; từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới”(32).
Công cuộc xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, quan trọng, đòi hỏi Đảng ta phải luôn hoàn thiện những nội dung cốt lõi của hệ giá trị văn hóa, con người trong thời đại mới.
__________________
Ngày nhận bài: 07-3-2023; Ngày bình duyệt: 11-3-2023; Ngày duyệt đăng: 16-3-2023.
(1) Chris Barker 2004: The Sage Dictionary of cutural Studies, SAGE Publication, London, tr.206.
(2) G.Endrrweit & G.Trommsdorff: Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2002, tr.156.
(3) Ted Honderich: Hành trình cùng triết học, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.1132.
(4) F.H.Fichter: Xã hội học, Sài Gòn, 1973, tr.173.
(5) Trần Ngọc Thêm: Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr.38.
(6) Phạm Duy Đức: Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3566-xay-dung-he-gia-tri-quoc-gia-he-gia-tri-van-hoa-viet-nam-trong-thoi-ky-hoi-nhap-quoc-te.html, truy cập ngày 14-6-2021.
(7), (8), (9), (10) Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam: Hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2018, tr.25-26, 25-26, 25-26, 25-26.
(11), (14), (18) Phan Ngọc Liên (chủ biên): Biên niên sử các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2006, tr.680, 899, 973.
(12), (13), (15), (16), (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, phần I, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.710, 710, 710, 930, 932.
(19), (20), (21) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.223, 225, 126-127.
(22), (23), (24), (25) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.28-29, 29, 79, 37-38.(26), (27), (28), (29), (30), (31), (32) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.143, 144, 145, 146, 147, 264, 147.
ThS TRỊNH THỊ THỦY
Trường Đại học Quốc tế Bắc Hà