Quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường vì sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

18/09/2023 14:19

TS NGUYỄN VIỆT THANH
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long

(LLCT) - Theo quan điểm của Đảng, bảo vệ môi trường là một nội dung, biện pháp quan trọng bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước và vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bài viết làm rõ quan điểm, đường lối của Đảng; thực trạng và đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi trường vì sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường vì sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững đất nước - Ảnh: nangluongsach.vn

1. Quan điểm, đường lối của Đảng về bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững đất nước

C. Mác từng nhấn mạnh: “Con người là bộ phận của giới tự nhiên”(1). Luận điểm kinh điển của C. Mác cho thấy vấn đề cơ bản là quá trình hình thành, phát triển của xã hội loài người gắn liền với tự nhiên; con người sinh sống gắn liền với tự nhiên, giới tự nhiên chính là thân thể vô cơ của con người, đó chính là mối quan hệ biện chứng giữa con người với giới tự nhiên, không rời nhau. Kế thừa quan điểm, tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết, bài nói về vấn đề bảo vệ môi trường sống của con người. Người phát động các phong trào trồng cây gây rừng, Tết trồng cây, giữ gìn vệ sinh, diệt ruồi, muỗi. Các phong trào do Người khởi xướng và phát động đã nhận được sự đồng tình, hưởng ứng sôi nổi của các tầng lớp nhân dân.

Người sớm đặc biệt quan tâm, chú trọng bảo vệ môi trường, bảo vệ môi trường sống của con người. Người chỉ rõ: “Mình dù nghèo, ai cấm mình ăn ở sạch sẽ? Sạch sẽ là một phần của đời sống mới. Sạch sẽ thì ít đau ốm”(2).
Để bảo vệ môi trường, một trong những nội dung, biện pháp được Người đặc biệt nhấn mạnh đó là phải trồng cây xanh. Bởi theo Người, trồng cây xanh không chỉ đơn thuần là trồng cho nhiều, mà trồng cây xanh còn nhằm góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi người trong bảo vệ môi trường, đem lại không khí trong lành, xanh mát, hạn chế, giảm thiểu hạn hán, lũ lụt, thiên tai.

Như vậy, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của môi trường, là môi trường mà hàng ngày, hàng giờ con người sống và làm việc. Những tư tưởng đó của các đã được Đảng ta quan tâm, cụ thể hóa vào thực tiễn

Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) xác định: “tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”(3). Đó là vấn đề căn cốt bảo đảm cho sự phát triển ổn định, bền vững của quốc gia, dân tộc trong tiến trình đi lên CNXH.

Nghị quyết 24 -NQ/TW ngày 3-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương khẳng định: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước”(4).

Việt Nam từ điểm xuất phát thấp, trình độ, công nghệ lạc hậu, nếu không quan tâm, chú trọng bảo vệ môi trường sẽ để lại hậu quả đến thế hệ mai sau. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ rõ: “Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”(5). Và “không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, càng không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”(6).

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (năm 1930) cho đến trước năm 1975, dân tộc ta tập trung mọi nguồn lực cho đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, Đảng ta chưa có nhiều điều kiện để đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Song, những quan điểm, chủ trương của Đảng về chăm lo sức khoẻ nhân dân, phát động các phong trào giữ gìn vệ sinh, trồng cây xanh, đắp đê ngăn lũ, xây dựng các công trình thủy lợi… đã cho thấy việc bảo vệ môi trường được Đảng ta quan tâm, chú trọng.

Từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986) với đường lối đổi mới toàn diện nền đất nước, xóa bỏ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế hoạch toán kinh doanh, tập trung nguồn lực xây dựng, phát triển đất nước, Đảng ta đã nhận thức rõ loài người đang đứng trước nhiều vấn đề mới có tính chất toàn cầu, trong đó có vấn đề sử dụng quá mức tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH được Đại hội VII (năm 1991) của Đảng thông qua cũng xác định: Tuân thủ nghiêm ngặt việc bảo vệ môi trường, giữ gìn cân bằng sinh thái cho thế hệ hiện tại và mai sau.
Bước tiến quan trọng đánh dấu tư duy đổi mới, nhìn nhận, đánh giá về bảo vệ môi trường thời kỳ CNH, HĐH đất nước của Đảng ta là Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 25-6-1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chỉ thị nhấn mạnh, bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đói, giảm nghèo ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Tiếp đó, Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị khóa IX về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ môi trường, là một trong những nội dung quan trọng. Bộ Chính trị nhấn mạnh: Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại, là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và những thách thức của những vấn đề toàn cầu, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3-6-2013 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Trong đó, Đảng ta xác định quan điểm, mục tiêu: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước.

Đại hội XII của Đảng (năm 2016) xác định: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường”(7). Kết luận số 56-KL/TW ngày 23-8-2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã khẳng định: Môi trường không chỉ là không gian sinh tồn của con người, mà còn là điều kiện, nền tảng, yếu tố tiên quyết cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế.

Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục nhấn mạnh quan điểm bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên “lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu… xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”(8).

Quan điểm, chủ trương của Đảng ta từ Đại hội VI (năm 1986) đến Đại hội XIII (năm 2021) đều xác định bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề sống còn của quốc gia, dân tộc, có tác động qua lại đến sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước; ứng phó với biến đổi khí hậu, xây dựng môi trường sinh thái hài hòa, thân thiện đòi hỏi phải có sự chung tay, góp sức của cả cộng đồng thế giới. Đối với Việt Nam, đó là sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương các doanh nghiệp và mỗi người dân. Cùng với đó là thực hiện các giải pháp đồng bộ, thiết thực, cụ thể để khai thác, sử dụng, tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm phát triển kinh tế - xã hội và góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng nhân dân, bảo vệ môi trường trong lành, không gây ô nhiễm bởi tiếng ồn, nguồn nước, chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp.

2. Thực trạng bảo vệ môi trường ở Việt Nam

Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta thời gian qua đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh quan điểm bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên: “lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu… xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”.

Chính phủ và các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương đã tích cực, chủ động trong kiểm soát, đưa ra phương án, biện pháp khoa học, toàn diện với từng vùng, từng địa bàn chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu để phối hợp giải quyết; các chỉ tiêu về môi trường trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở các ngành, địa phương.

Cụ thể là: “Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đến năm 2020 đạt khoảng 90%, tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nguồn nước ăn uống hợp vệ sinh ước đạt 90,2% tăng mạnh so với năm 2015 (86,2%). Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường năm 2020 là 90%. Tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2020 khoảng 42%, đạt mục tiêu, kế hoạch đề ra”(9).

Hợp tác quốc tế, tham gia vào các hội nghị quốc tế chống biến đổi khí hậu được Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm, tiêu biểu như: cam kết của Chính phủ về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 (Net Zero) tại Hội nghị COP26; tham gia Thỏa thuận Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với một số nước G7 và đối tác quốc tế khác; tham dự Hội nghị Thượng đỉnh về Hiệp ước Tài chính toàn cầu mới tại Pháp ngày 21 đến 24-6-2023.

Cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chương trình, dự án của Chính phủ, các địa phương ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, điển hình như Cần Thơ đã đề ra nhiều giải pháp ứng phó với biển đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, xây dựng đô thị văn minh, hiện đại, như: đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến người dân và doanh nghiệp, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững; trong sản xuất nông nghiệp, nhân rộng sản xuất theo quy trình vietGAP, Global GAP, ứng dụng kỹ thuật tiên tiến; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biến đối khí hậu (tham gia thỏa thuận các thị trưởng toàn cầu về biến đổi khí hậu và năng lượng; tham gia mạng lưới các thành phố BreatheLife; thành viên trong mạng lưới 100 thành phố toàn cầu có khả năng chống chịu…); tổ chức nhiều hội thảo, tập huấn phổ biến thông tin, kiến thức về môi trường, biến đổi khí hậu cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thành phố(10).

Để ứng phó với biến đổi khí hậu, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Kiên Giang đã triển khai thực hiện nhiều công trình, dự án chống xói mòn, sạt lở đất ven biển, phục hồi rừng ngập mặn, xây dựng kè chống sạt lở ven biển, xây dựng hàng rào giữ bùn gây bồi, tạo bãi phát triển rừng ngập mặn, xây dựng 2 dự án đê biển, xây dựng công trình thủy lợi cống Kênh Nhánh ngăn mặn, giữ ngọt cho vùng Tứ giác Long Xuyên. Tiến hành giao khoán bảo vệ rừng gần 10.000 ha cho hộ dân sản xuất theo mô hình lâm - ngư kết hợp, khoanh nuôi tái sinh hơn 500 ha và trồng rừng gần 1.000 ha(11).

Thành phố Hồ Chí Minh đặt ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho từng giai đoạn để chủ động ứng phó với biến đổi khi hậu: phấn đấu đến năm 2025, giảm 30% thiệt hại về người đối với các loại hình thiên tai có cường độ, quy mô lớn; 100% hộ gia đình được tiếp nhận thông tin về thiên tai; giai đoạn 2021 – 2025, giảm 50% thiệt hại do thiên tai gây ra; tăng cường đầu tư nghiên cứu cơ bản về thiên tai, nâng cao năng lực cảnh báo, dự báo, nâng cấp trang thiết bị(12).

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, hạn chế. Ý thức, trách nhiệm của một bộ phận người dân, doanh nghiệp chưa tốt, không có kế hoạch, phương án dự phòng, đề phòng những rủi ro có thể xảy ra khi gặp sự cố.

Ở nhiều địa phương, xây dựng nhà máy, xí nghiệp sản xuất kinh doanh ngay ở trong khu dân cư nhưng không bảo đảm về môi trường; vẫn còn tình trạng doanh nghiệp xả thải không qua xử lý ra môi trường tự nhiên; người dân xả thải, rác bừa bãi xuống kênh, hồ, ao; nhiều bãi rác tập trung được thu gom ở gần khu dân cư; có địa phương, lãnh đạo tỉnh bắt tay với doanh nghiệp khai thác quặng, than đá, cát gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong sạt lở đất, lở núi, ngập nước, hủy diệt hệ sinh thái, sa mạc hóa những cánh đồng trù phú, tình trạng xâm nhập mặn; những bãi bồi bị mất đi do nạn hút “cát tặc”.
Nhận thức rõ thực trạng này, Đảng ta chỉ rõ: “Khai thác tài nguyên thiếu bền vững, hiệu quả, quản lý, sử dụng chưa cao, chưa theo nguyên tắc của thị trường, nhất là đất đai…. Việc quản lý và xử lý chất thải rắn đô thị còn hạn chế, môi trường nước ở một số đô thị bị ô nhiễm… rác thải ở khu vực nông thôn, ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, các nhà máy sản xuất công nghiệp gia tăng”(13).

Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên là do: (1) Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chưa làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho người dân và doanh nghiệp nâng cao ý thức bảo vệ môi trường; thấy lợi ích trước mắt về kinh tế mà chưa tính đến việc bảo đảm phát triển bền vững trong mỗi một chủ trương, dự án. Chúng ta “Chưa nhận thức đầy đủ và xử lý tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu”(14). (2) Hệ thống pháp luật, Luật bảo vệ môi trường tuy khá hoàn chỉnh, song vẫn còn kẽ hở, chưa đủ mạnh để răn đe, chế tài quá nhẹ đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. (3) Người đứng đầu chính quyền các cấp ở một số địa phương buông lỏng lãnh đạo, quản lý, thiếu sâu sát kiểm tra, đánh giá việc bảo vệ môi trường sinh thái. (4) Các cơ quan chức năng, ban, ngành chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ trong xử lý, giải quyết các vấn đề có liên quan đến bảo vệ môi trường; (5) Năng lực dự báo, đánh giá tình hình và xử lý vi phạm đối với tập thể, cá nhân vi phạm đến môi trường chưa thật quyết liệt, mạnh mẽ, còn nể nang, né tránh, bao che, dung túng, tiếp tay cho sai phạm.

Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Các thách thức về biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên, sử dụng nguồn nước xuyên biên giới, nhất là nguồn nước sông Mê Kông, thiên tai, dịch bệnh và thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng, đặt ra yêu cầu ngày càng cấp bách về tăng cường hợp tác xử lý, đặt ra nhiều vấn đề, thách thức lớn chưa từng có cho phát triển nhanh và bền vững”(15). Trong khi đó, yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước là trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng XHCN, đỏi hỏi các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để bảo đảm phát triển bền vững.

3. Một số biện pháp bảo vệ môi trường vì sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi chủ thể về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường.

Một trong những giải pháp quan trọng được Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương xác định: “Tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, hình thành ý thức chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường”(16). Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”(17). Theo đó, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần quán triệt nghiêm túc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường.

Đến nay, các văn bản của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường đã tương đối hoàn thiện, đồng bộ, toàn diện cho từng ngành, lĩnh vực; người đứng đầu các sở, ban, ngành ở các tỉnh, thành cần phải tích cực, chủ động cụ thể hóa thành các chương trình, dự án hành động cụ thể, thiết thực, không thụ động, trông chờ sự giúp đỡ, hỗ trợ, định hướng từ Trung ương.
Trên cơ sở đặc điểm tình hình ở mỗi khu vực, địa bàn, người đứng đầu ở nơi đó xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể trong tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhưng phải bảo đảm môi trường, không gây tổn hại đến đời sống của nhân dân, không để lại những bức xúc, gây cản trở trong sinh hoạt đời sống của người dân; nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi người đối với sự phát triển bền vững của địa phương, không vì lợi ích trước mắt mà đánh đổi sức khoẻ, tính mạng của người dân; đa dạng hóa các hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục người dân, doanh nghiệp trên địa bàn, cam kết chấp hành nghiêm quy định của pháp luật, địa phương và những tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường; xây dựng các mô hình “Ngày thứ Bảy, Chủ nhật xanh”; “Nhà tôi xanh, sạch, đẹp”; “Chống rác thải nhựa”… và lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống các văn bản của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường

Đại hội XIII của Đảng xác định: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật, nhất là cơ chế tài chính về khai thác, sử dụng về tài nguyên nước, bảo đảm công bằng, hiệu quả, bền vững trên nguyên tắc của thị trường và quản lý tổng hợp nguồn nước, bảo đảm nghiêm ngặt an ninh nguồn nước, nhất là nước sạch cho sinh hoạt”(18). Quán triệt tinh thần trên, các cơ quan, ban, ngành có liên quan đề cao tinh thần, trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân, tham mưu, đề xuất những nội dung đúng, trúng, có liên quan trực tiếp đến thực tiễn ô nhiễm môi trường, hiện trạng khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên ở các địa phương, từ đó, tổng hợp tình hình, báo cáo cấp có thẩm quyền ban hành các quy định, hướng dẫn, điều chỉnh, bổ sung về bảo vệ môi trường phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ ở mỗi vùng, địa phương. Đồng thời, tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, kinh phí chống biến đổi khí hậu, tránh lạm dụng quyền lực trong xây dựng cơ chế, chính sách, lồng ghép động cơ cá nhân, “lợi ích nhóm”. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đấu tranh, ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên môi trường, đẩy lùi tình trạng ô nhiễm, xâm hại môi trường, suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học”(19).

Ba là, tập trung xử lý, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, đô thị lớn, các cụm công nghiệp.

Người đứng đầu các địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa biện pháp tuyên truyền, giáo dục với xử lý theo quy định pháp luật đối với hộ gia đình, chủ sản xuất không tuân thủ quy định về môi trường. Ở những khu vực, địa bàn thường xuyên xảy ra ô nhiễm môi trường, nguồn nước sinh hoạt của người dân bị ảnh hưởng, chính quyền các cấp cần tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, không để tình trạng đó kéo dài, ảnh hưởng đến sản xuất, cuộc sống của người dân.

Tăng cường sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại vào xử lý ô nhiễm môi trường, huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng có liên quan, đặc biệt là nhân dân trong bảo vệ môi trường.

Bốn là, quản lý chặt chẽ, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm cho sự phát triển bền vững.

Nước ta đang đứng trước nguy cơ khai thác cạn kiệt tài nguyên rừng, tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản… Các cơ quan, ban, ngành cần tăng cường công tác quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên đều tính đến tái sinh, phát triển bền vững, đem lại hiệu quả thiết thực, phục vụ hữu ích cho sự phát triển của địa phương. Nâng cao ý thức, trách nhiệm người dân trong bảo vệ tài nguyên rừng, đẩy mạnh việc trồng rừng, không để kẻ xấu chặt cây, phá rừng, khai thác gỗ lậu; tăng đầu tư kinh phí, hỗ trợ cho bộ phận, lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ rừng, nhất là ở khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa. Cần tính toán trước khi quyết định xây dựng các nhà máy thủy điện ở các địa phương, do những ảnh hưởng đến lòng đất và tài nguyên thiên nhiên mà không thể tái tạo được.

_________________

Ngày nhận bài: 22-8-2023; Ngày bình duyệt: 29-8-2023; Ngày duyệt đăng:17-9-2023.

 (1) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập,t. 42, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.135.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.114.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.85.

(4), (16) ĐCSVN: Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03-6-2013 của BanChấp hànhTrung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

(5), (6) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,tr.21, 27.

(7), (14)ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.271, 153, 86.

(8), (18), (19), (20) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.171, 154-155, 154.

(9), (13), (15), (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,tr.50 -51, 73-74, 89-90, 142.

(10) Cần Thơ thực hiện nhiều giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, https://dangcongsan.vn, ngày 13-7-2022.

(11) Kiên Giang nỗ lực chống biến đổi khí hậu và cải thiện sinh kế cho cư dân ven biển, https://dangcongsan.vn, ngày 16-9-2021.

(12) Thành phố Hồ Chí Minh, phòng, chống thiên tai, thích ứng biến đổi khí hậu hướng đến cuộc sống bền vững và an toàn, https://baotainguyenmoitruong.vn, ngày 20-2-2023.