Cơ chế pháp lý về sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam
(LLCT) - Các tổ chức xã hội có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường, tuy nhiên, sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường vẫn còn thụ động hoặc không hiệu quả. Bài viết làm rõ một số vấn đề lý luận chung về cơ chế pháp lý về sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam; chỉ ra thực trạng và một số gợi mở mang tính khuyến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý này.
Sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước - Ảnh: baotainguyenmoitruong.vn
1. Cơ chế pháp lý về sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Các tổ chức xã hội (TCXH) ở Việt Nam hiện nay bao gồm nhiều nhóm tổ chức được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau và nhiều cách hiểu khác nhau. Trong nghiên cứu này, khái niệm TCXH được hiểu theo nghĩa hẹp, không bao gồm các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, TCXH nghề nghiệp mà tập trung vào cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong bảo vệ môi trường (BVMT) với tính cách là những hội theo quy định tại Nghị định 45/2010/NĐ-CP về tổ chức hoạt động của các tổ chức hội.
TCXH đề cập ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là “tổ chức tập hợp tự nguyện của công dân, tổ chức dưới hình thức các hội cùng nghề nghiệp, cùng sở thích, cùng hoàn cảnh... có chung mục đích tập hợp đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên không vụ lợi, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng, hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong hoạt động nghề nghiệp và trong cuộc sống góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1).
TCXH theo nghĩa là một trong các liên kết giữa nhà nước, thị trường và xã hội, là một trong ba trụ cột phát triển của xã hội chứ không phải là một thiết chế chính trị (nhà nước) hay thiết chế dựa trên lợi ích kinh tế và lợi nhuận (thị trường) mà nó được hiểu là một “một dạng thức trung gian của nhà nước và công dân, giúp công dân có thể đối thoại nhằm bảo đảm được những quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có sự xung đột với lực lượng thị trường và với chính những đại diện của mình trong liên kết chính trị (tức nhà nước)”(2).
Trong xã hội, các TCXH có những vai trò cơ bản như: tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện đại đoàn kết dân tộc, động viên nhân dân tham gia vào giải quyết các vấn đề xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển; tích cực phát triển, cung cấp các dịch vụ, thực hiện các chương trình, dự án, các chương trình xã hội hóa giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học, BVMT, xóa đói giảm nghèo, từ thiện nhân đạo, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm…; là lực lượng góp phần thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng công bằng, văn minh, bởi lĩnh vực hoạt động của TCXH rất đa dạng, địa bàn hoạt động khắp cả nước và đối tượng thụ hưởng các hoạt động của các TCXH cũng vô cùng đa dạng nhưng tập trung nhiều vào các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương…; tham gia vận động chính sách và đại diện cho hội viên và cộng đồng trong giải quyết các vấn đề xã hội; góp phần thúc đẩy mối quan hệ đoàn kết trong nước và đối ngoại quốc tế, là lực lượng đối ngoại nhân dân; giám sát và đưa ra các tiêu chuẩn như: minh bạch giải trình, quản trị tốt, các nguyên tắc đạo đức và ứng xử trong công việc, trong kinh doanh(3)…
Trong lĩnh vực BVMT, các TCXH có các vai trò cơ bản như vận động các thành viên của mình thực hiện các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân trong BVMT; tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, kế hoạch và các quy định về BVMT; tham gia hoạt động tư vấn, phản biện xã hội trong lĩnh vực BVMT; tham gia hoạt động giám sát, phát hiện hành vi vi phạm pháp luật BVMT, cưỡng chế, thi hành pháp luật BVMT; tham gia hoạt động BVMT thông qua các hoạt động dịch vụ BVMT; tham gia phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về BVMT và thu hút sự tham gia của cộng đồng vào BVMT
Cơ chế pháp lý được hiểu là hệ thống các yếu tố pháp lý, quy phạm pháp luật và các phương tiện pháp lý khác hợp thành, có quan hệ tác động qua lại mật thiết với nhau theo một trật tự xác định nhằm điều chỉnh, tác động đến một đối tượng hay quan hệ xã hội để đạt được hiệu quả pháp lý nhất định, thì “cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT là hệ thống các yếu tố pháp lý hợp thành, có mối quan hệ mật thiết với nhau nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong khi các TCXH tham gia BVMT, đồng thời ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc ủng hộ, hỗ trợ sự tham gia của các TCXH trong BVMT, xử lý các chủ thể vi phạm pháp luật BVMT, BVMT, bảo vệ lợi ích của quốc gia, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể và của công dân”(4).
Khái niệm trên cho thấy cơ chế pháp lý về sự tham gia của TCXH trong BVMT có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cơ chế pháp lý về sự tham gia của TCXH trong BVMT là một dạng cụ thể của cơ chế pháp lý nói chung. Cơ chế này cũng có những đặc điểm chung của cơ chế pháp lý nói chung về mặt nội dung, tổ chức, thủ tục. Cơ chế này luôn gắn liền với pháp luật và điều chỉnh pháp luật. Nếu không gắn với pháp luật, không thể có tính pháp lý của cơ chế. Hơn nữa, sự tham gia của TCXH trong BVMT không phải chỉ là phát động phong trào toàn xã hội tham gia BVMT hay chỉ là lời nói mà phải được thể hiện thông qua hình thức pháp lý, được ghi nhận, giới hạn và bảo đảm thực hiện bởi pháp luật. Điều đó có nghĩa là, cơ chế pháp lý về sự tham gia của TCXH trong BVMT phải gắn với pháp luật, tồn tại và vận hành dưới hình thức pháp luật. Quy định pháp luật về sự tham gia của các TCXH trong BVMT không chỉ được thể hiện trong một văn bản mà được thể hiện trong nhiều văn bản trên các lĩnh vực khác nhau. Chính vì vậy, từ góc độ pháp lý, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT là sự thể hiện ra bên ngoài thông qua việc cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ cơ bản của các TCXH trong BVMT gắn liền với các phương pháp, hình thức, thủ tục thực hiện quyền và nghĩa vụ nói trên.
Sự tham gia của các TCXH trong BVMT được bảo đảm sẽ giúp cho việc thực hiện tốt quyền môi trường của các cá nhân nói riêng và cộng đồng nói chung. Vì vậy, phải có những bảo đảm về mặt pháp lý cho các tổ chức này thực hiện tốt vai trò tham gia của mình trong BVMT.
Thứ hai, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT có cấu trúc phức tạp, nhiều yếu tố cấu thành và các yếu tố này có mối quan hệ gắn bó mật thiết, tác động qua lại với nhau. Cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT bao gồm các bộ phận: thể chế, thiết chế và các điều kiện bảo đảm cho TCXH tham gia BVMT.
Hệ thống các TCXH có vai trò vô cùng quan trọng trong BVMT và là bộ phận thiết chế quan trọng trong cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT. Nếu các quy định thuộc về thể chế chứa đựng những hình thức và phương pháp pháp lý bảo đảm sự tham gia của các TCXH trong BVMT và chúng được các TCXH sử dụng một cách hợp lý, khoa học thì cơ chế này hoạt động mới đạt hiệu quả cao trong quá trình BVMT. Hậu quả pháp lý, là kết quả của việc các TCXH tham gia BVMT phụ thuộc vào hệ thống thiết chế, thể chế; hình thức; phương pháp pháp lý và các điều kiện bảo đảm khác. Để thực hiện tốt cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT, các bộ phận phải có mối liên hệ gắn chặt với nhau, chi phối, phụ thuộc lẫn nhau và phải được vận dụng, áp dụng một cách đồng bộ. Nếu chỉ chú trọng một bộ phận này, không chú trọng bộ phận khác, không tiến hành một cách đồng bộ thì cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT chỉ mang tính hình thức, thậm chí không thể vận hành được hoặc bất động.
Thứ ba, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT vận hành phụ thuộc vào sự phát triển của các hình thức, phương thức tham gia BVMT, phương thức thực hiện và bảo đảm quyền tham gia BVMT của các chủ thể trong một nhà nước, sự phát triển của xã hội, ý thức và kỹ năng thực hiện quyền của từng công dân, trách nhiệm của Nhà nước trước các vấn đề môi trường và xã hội, trong khi hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về môi trường lại phụ thuộc chủ yếu vào mức độ hoàn thiện của mô hình tổ chức bộ máy và hoạt động của các cơ quan nhà nước trong BVMT, tính hợp lý của cơ chế quản lý nhà nước về BVMT, tính chuyên nghiệp trong tổ chức lao động của các công chức nhà nước trong thực hiện công vụ liên quan đến BVMT… Các hình thức, phương pháp đó được pháp luật quy định và được bảo đảm trên thực tế cho quá trình thực hiện sự tham gia BVMT của TCXH nói riêng và của mọi người trong xã hội nói chung. Chỉ có như vậy, cơ chế mới trở thành cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT và mới vận hành được trên thực tế.
Thứ tư, sự phát triển của cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT gắn với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là sự tiến bộ của xã hội trong việc ghi nhận vai trò, tầm quan trọng của các TCXH. Điều đó có nghĩa là, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT chỉ vận hành có hiệu quả trong môi trường dân chủ, pháp quyền của đất nước và trên cơ sở các chủ thể trong xã hội đều tham gia vận hành cơ chế này một cách đồng bộ, bảo đảm sự công nhận quyền môi trường của cá nhân và cộng đồng, cả về mặt quyền nội dung lẫn quyền thủ tục. Vì thế, nâng cao dân chủ, phát huy vai trò của cộng đồng và các TCXH trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và dân chủ XHCN ngày càng được tăng cường thì cơ chế pháp cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT mới vận hành tốt và hiệu quả.
Thứ năm, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, các chủ thể khác và yêu cầu của TCXH trong việc thực thi quyền tham gia BVMT. Các thiết chế trong cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT gồm có các TCXH, Nhà nước, doanh nghiệp và cả cộng đồng dân cư, trong đó các TCXH là thiết chế trung tâm. Thực tế, BVMT luôn là sự nghiệp của toàn xã hội, là quyền và trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân. “BVMT là trách nhiệm của toàn xã hội, là nghĩa vụ của mọi người dân; phải được thực hiện thống nhất trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, phân cấp cụ thể giữa Trung ương và địa phương; kết hợp phát huy vai trò của cộng đồng, các tổ chức quần chúng và hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới”(5). Để nâng cao vai trò tham gia BVMT của các TCXH thì tất cả các thiết chế còn lại trong cơ chế pháp lý nếu phải có trách nhiệm nhất định trong việc bảo đảm cho TCXH tham gia có hiệu quả vào BVMT, trong đó trách nhiệm của Nhà nước có vai trò quan trọng nhất.
Trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm sự tham gia của các TCXH trong BVMT được hiểu là Nhà nước tạo ra các điều kiện thuận lợi để các TCXH tham gia BVMT và giải quyết các yêu cầu, đề nghị, khiếu nại, tố cáo, phản ứng của TCXH, xử lý hành vi vi phạm môi trường của các chủ thể vi phạm pháp luật BVMT, xử lý các vi phạm đối với quyền tham gia BVMT của các TCXH.
Quyền tham gia BVMT của các TCXH có thể được tiếp cận từ các quyền bộ phận như quyền tiếp cận thông tin về môi trường (quyền được biết), quyền tham gia của TCXH trong các hoạt động BVMT (quyền được làm), quyền tiếp cận tư pháp trong các vấn đề môi trường (quyền được kiểm tra, giám sát). Với cách tiếp cận như vậy thì cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT phải thể hiện được sự thống nhất các quyền nói trên. Mỗi quyền lại được thể hiện bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau nên phương thức, thủ tục pháp lý trong cơ chế có sự đa dạng, phong phú, từ việc được tiếp cận thông tin về môi trường, tham gia giám sát, phản biện, tư vấn, thẩm định, kiến nghị, đề xuất, góp ý kiến, áp lực công luận đối với các quyết định chính sách, các dự án ảnh hưởng đến môi trường; kiểm tra, giám sát các hoạt động BVMT; thực hiện tự quản và phát triển các dịch vụ môi trường đến đòi bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường…
Như vậy, trách nhiệm bảo đảm sự tham gia BVMT đòi hỏi Nhà nước phải ghi nhận các quyền và phương thức thực hiện tham gia BVMT của các TCXH trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Đó là cơ sở quan trọng để tạo lập các thủ tục pháp lý gắn với thiết chế, phương tiện và quy trình cụ thể trong việc tham gia BVMT; kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật trong việc tham gia BVMT; tạo điều kiện để các chủ thể khác tham gia, hỗ trợ trong việc thực hiện quyền tham gia BVMT của các TCXH.
2. Vai trò của cơ chế pháp lý về sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ nhất, việc xây dựng và thực hiện cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân thông qua việc bảo đảm các quyền và nghĩa vụ tham gia BVMT của cộng đồng và các TCXH. Các quyền này của các TCXH và cộng đồng được thực hiện trên cơ sở bảo đảm các quyền tiếp cận thông tin về môi trường, quyền tham gia của các TCXH vào các hoạt động BVMT, các quyền về tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường.
Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong BVMT thể hiện ở trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thu thập, xử lý, thống kê và lưu trữ dữ liệu, thông tin về môi trường, bảo đảm nguyên tắc công khai thông tin về môi trường, Nhà nước phải xác lập nghĩa vụ cung cấp, công bố thông tin về môi trường, bảo đảm hỗ trợ nâng cao năng lực tiếp cận thông tin của các TCXH và cộng đồng trong các vấn đề về môi trường.
Các TCXH thực hiện quyền tham gia của các TCXH vào các hoạt động BVMT thông qua các hình thức được hỏi ý kiến về các quyết định liên quan đến môi trường, tham gia hoặc gửi yêu cầu, kiến nghị đối với các quyết định liên quan đến môi trường, đối thoại về môi trường, kiểm tra, giám sát các hoạt động BVMT, tự quản và phát triển các dịch vụ BVMT.
Các quyền về tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường của các TCXH được thể hiện ở chỗ, các TCXH cũng như mọi người trong cộng đồng đều có quyền tự bảo vệ theo quy định của pháp luật và có quyền khiếu nại, tố cáo.
Hiệu quả công tác BVMT trước hết phụ thuộc vào quyền tiếp cận thông tin, sự tham gia tích cực của người dân và tiếp cận tư pháp trong lĩnh vực môi trường. Khắc phục ô nhiễm và suy thoái môi trường hiện nay là công việc chung của nhiều ngành, nhiều đoàn thể, nhưng trách nhiệm trước hết thuộc về các cơ quan có thẩm quyền. Bởi vậy, xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT không chỉ có ý nghĩa khẳng định sự thừa nhận và bảo đảm các quyền con người mà còn tăng cường giáo dục về các quyền con người và môi trường, thúc đẩy mạnh mẽ công tác BVMT trong thực tế.
Thứ hai, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT góp phần nâng cao vai trò của các TCXH trong BVMT. Các TCXH có vai trò quan trọng trong việc BVMT thông qua các hoạt động tư vấn chính sách, truyền thông và giáo dục nâng cao nhận thức. Sự tham gia của các TCXH vào hoạt động BVMT là quyền và nghĩa vụ được quy định bằng luật; Nhà nước có nghĩa vụ đáp ứng và tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của các TCXH vào BVMT. Các TCXH là cầu nối cho sự tham gia rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân vào BVMT. Những hoạt động của các TCXH có ý nghĩa thiết thực, hiệu quả và tác động tích cực tới việc BVMT. Với những ý nghĩa quan trọng như vậy, việc xây dựng và thực hiện cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT có vai trò vô cùng quan trọng nhằm nâng cao vai trò của các TCXH trong BVMT ở Việt Nam.
Thứ ba, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT góp phần bảo đảm quyền làm chủ của người dân trong BVMT. Việc ghi nhận và bảo đảm vai trò tham gia của các TCXH với tư cách là đại diện của các cộng đồng dân cư, đại diện cho nhân dân là một biểu hiện cụ thể của việc bảo đảm quyền làm chủ của người dân. Quyền làm chủ của người dân được thực thi trên nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong quá trình, trong các quy định pháp luật ghi nhận các quyền tiếp cận của công dân, quyền tiếp cận luật pháp và quyền được tham gia của người dân và các TCXH. Hiện nay, các TCXH đóng vai trò là một kênh giám sát hữu hiệu và cũng là cầu nối quan trọng giữa Nhà nước, khu vực tư nhân và người dân. Các TCXH cần tham gia hoạt động hiệu quả hơn, giúp cơ quan nhà nước tăng cường năng lực xây dựng và thực thi pháp luật về BVMT, bảo đảm quyền tham gia của người dân vào hoạt động BVMT.
Thứ tư, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT là một trong những phương tiện góp phần bảo đảm cho tính pháp quyền của Nhà nước được tăng cường, nhân tố làm cho Nhà nước mạnh. Nhờ đó, các chủ thể khác trong xã hội, trong đó bao gồm cả Nhà nước, doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, làm đúng, làm đủ nhiệm vụ, quyền hạn được mà pháp luật quy định về BVMT. Vì thế, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT có vai trò góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ngày càng vững mạnh.
Thứ năm, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT phối hợp với các cơ chế BVMT khác hợp thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho hoạt động BVMT hiệu quả. Cơ chế bảo đảm sự tham gia của các TCXH trong BVMT do các TCXH thực hiện hầu như không mang tính quyền lực nhà nước, phối hợp với cơ chế quản lý nhà nước về môi trường do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, bảo đảm cho công tác BVMT đạt kết quả tốt hơn. Mặc dù, hoạt động của các cơ quan nhà nước trong BVMT giữ vai trò quyết định trong BVMT, nhưng nếu thiếu cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT thì hoạt động BVMT thiếu toàn diện, không tạo thành sức mạnh tổng hợp.
3. Thực trạng cơ chế pháp lý về sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMTcó nhiều ưu điểm, tiến bộ:
Thứ nhất, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT cho thấy Nhà nước và các chủ thể khác trong BVMT đã đề cao trách nhiệm bảo vệ quyền môi trường của cộng đồng thông qua việc khẳng định vai trò của cộng đồng tham gia BVMT.
Luật BVMT năm 2020 đã có bước tiến bộ lớn khi quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các TCXH và cộng đồng dân cư có quyền tham gia trong công tác BVMT. Bước tiến này thể hiện ở việc Nhà nước trao quyền cho các TCXH và cộng đồng dân cư để thực thi một số chức năng trong quá trình tham vấn, góp ý, phản biện, giám sát các quyết định liên quan đến môi trường cũng như quá trình thực thi các quy định về BVMT của các bên liên quan. Đây cũng là những bảo đảm pháp lý quan trọng cho sự tham gia của các TCXH trong BVMT.
Thứ hai, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT đã tác động tích cực đến nhận thức của các chủ thể trong xã hội về tầm quan trọng của BVMT và vai trò của các TCXH trong BVMT. Từ cơ chế này, các chủ thể nhận thức được các quyền và trách nhiệm BVMT của mình, để từ đó có những hành vi tích cực trong BVMT và chủ động hơn trong việc thực hiện quyền tham gia của mình vào các hoạt động BVMT thông qua các hình thức được hỏi ý kiến về các quyết định liên quan đến môi trường, tham gia hoặc gửi yêu cầu, kiến nghị đối với các quyết định liên quan đến môi trường, đối thoại về môi trường, kiểm tra, giám sát các hoạt động BVMT, tự quản và phát triển các dịch vụ BVMT.
Thứ ba, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT góp phần nâng cao vai trò của các TCXH trong BVMT. Các TCXH hoạt động trong lĩnh vực BVMT không chỉ lớn mạnh về số lượng mà còn thể hiện vai trò tích cực trong các hoạt động BVMT, thông qua nhiều hoạt động, từ việc tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của cộng đồng đến những hoạt động như tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về BVMT. Các TCXH trở thành cầu nối cho sự tham gia rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân vào BVMT. Bởi vậy, những hoạt động của các TCXH có ý nghĩa thiết thực, hiệu quả và tác động tích cực tới việc BVMT.
Thứ tư, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT đã thúc đẩy bầu không khí dân chủ, bảo đảm quyền môi trường của người dân, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững, góp phần làm xanh hoá các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ năm, cùng với các cơ chế BVMT khác, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT góp phần tạo thành sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho hoạt động BVMT hiệu quả tốt nhất.
Bên cạnh những tác động tích cực, cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT vẫn còn những bất cập, hạn chế, gây tác động tiêu cực đến nhận thức và các kết quả BVMT ở Việt Nam.
Trong thời gian dài, các chủ thể trong xã hội từ phía Nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng đều chưa nhận thức đầy đủ vai trò, tác dụng của cơ chế này. Thực chất là chưa thực sự coi trọng vai trò của các TCXH trong các hoạt động quản lý xã hội nói chung, BVMT nói riêng. Mặt khác, các thiết chế bảo đảm sự tham gia của các TCXH trong BVMT được thiết lập trên cơ sở thể chế, nhưng thể chế không bảo đảm được các điều kiện để các thiết chế đó phát huy được hết chức năng, nhiệm vụ được giao. Cụ thể là, thẩm quyền, phạm vi, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý của cơ chế đối với các thiết chế bảo đảm sự tham gia của các TCXH trong BVMT còn tản mạn trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, khiến cho việc thực hiện gặp nhiều khó khăn; nhiều quy định chưa khoa học, thiếu trách nhiệm pháp lý ngay cả với chính các TCXH.
Hệ thống pháp luật được xây dựng, ban hành tuy đã được đổi mới nhưng vẫn còn một số hạn chế như: tư duy lập pháp về quản lý nhà nước, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung và pháp luật về BVMT nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật lập pháp, còn chưa khoa học, hệ thống các quy định bảo đảm sự tham gia của các TCXH trong BVMT vừa thiếu, vừa thừa, vừa chưa đồng bộ, thống nhất và cụ thể. Các quy định của pháp luật về các TCXH còn thiếu và chậm được cụ thể hóa, ban hành, làm cho việc thực hiện trên thực tế trở nên khó khăn, bất cập, hạn chế.
Các điều kiện bảo đảm để cơ chế pháp lý về sự tham gia của các TCXH trong BVMT vận hành, hoạt động chưa hoàn chỉnh, mối liên hệ giữa các bộ phận của cơ chế và giữa cơ chế bên trong với cơ chế bên ngoài bộ máy nhà nước chưa chặt chẽ, các yếu tố ảnh hưởng, tác động đến cơ chế như: môi trường dân chủ pháp quyền; trình độ dân trí và hiểu biết pháp luật của nhân dân; điều kiện kinh tế xã hội chưa đạt trình độ phát triển... là những nguyên nhân dẫn đến hạn chế hiệu quả hoạt động của cơ chế.
Mặt khác, các yếu tố phong tục, tập quán, nếp sống, trình độ dân trí, mức độ hiểu biết pháp luật còn chi phối, ảnh hưởng nhiều đến tác phong, hành xử của mọi thành viên trong xã hội, khiến cơ chế hoạt động chưa đạt được hiệu quả như yêu cầu đề ra.
Việc các tổ chức của Chính phủ, doanh nghiệp chưa và chưa sẵn sàng cung cấp đủ thông tin và thông tin minh bạch, đủ tin cậy đã dẫn đến những hạn chế như TCXH và người dân không tự tin và khó đi đến đồng thuận hơn trong quá trình thảo luận tham gia ý kiến. Việc đối thoại giữa TCXH và các cơ quan chính quyền các cấp kiểm tra, giám sát thực thi công tác BVMT còn chưa được chú trọng. Tăng cường đối thoại cũng là cách giúp TCXH, cộng đồng tiếp cận được các thông tin cần thiết mà họ quan tâm. Những cơ hội đối thoại này không chỉ giúp cho họ được bổ sung kiến thức, tiếp cận các văn bản pháp luật mới, mà còn cung cấp những thông tin phản hồi thực tế cho chính quyền tại các địa phương.
4. Một số gợi mở nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý về sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về nội dung tham gia và quyền, nghĩa vụ của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường
Trong điều kiện thực hiện chiến lược phát triển bền vững đất nước, vấn đề BVMT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, cần quy định nội dung tham gia BVMT của các TCXH cụ thể hơn, gắn trực tiếp với BVMT. Chẳng hạn quy định góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật về môi trường, BVMT; khiếu nại, tố cáo về vi phạm môi trường, gây ô nhiễm môi trường v.v.. Việc quy định này có thể nêu ngay trong Luật Bảo vệ môi trường hoặc quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các TCXH nói chung và TCXH về môi trường nói riêng.
Về quyền, nghĩa vụ của các TCXH, TCXH về môi trường trong BVMT cũng cần được quy định cụ thể gắn với yêu cầu BVMT, không để nội dung này trong pháp luật về dân chủ, về khiếu nại, tố cáo. Nên quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ trong BVMT. Cần làm rõ trong BVMT các TCXH nói chung và TCXH về môi trường nói riêng được làm gì, không được làm gì? và các nghĩa vụ của TCXH trong BVMT, không để lẫn nội dung này trong quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo. Chẳng hạn quy định khi tham gia đấu tranh BVMT các TCXH phải bảo đảm không làm ảnh hưởng đến hoạt động của xã hội (hoạt động giao tiếp, hoạt động của các bệnh viện, của cơ quan công quyền v.v..).
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung và cụ thể hóa quy định về hình thức, phương pháp tham gia bảo vệ môi trường của các tổ chức xã hội
Cần có quy định riêng về hình thức, phương pháp tham gia BVMT của các TCXH và tốt nhất là quy định trong Luật BVMT. Chẳng hạn quy định về góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật về môi trường và BVMT của các TCXH nói chung và TCXH BVMT nói riêng, có thể tham gia dưới hình thức hội nghị, hội thảo khoa học với phương pháp tham gia là gửi các bản kiến nghị, góp ý kiến cho cơ quan soạn thảo. Cần quy định rõ trách nhiệm tiếp thu, giải trình, trả lời của các cơ quan soạn thảo. Trong đấu tranh BVMT của các TCXH cũng cần xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức phải trả lời, giải trình về những đề nghị, yêu cầu của TCXH.
Đối với các TCXH BVMT, do hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực BVMT nên cần có quy định mới và cụ thể hơn về hình thức, phương pháp tham gia BVMT của họ. Chẳng hạn, quy định về hình thức tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học, tổ chức điều tra, khảo sát môi trường v.v.. để có tài liệu khoa học tư vấn, phản biện các quyết định về chính sách, pháp luật tác động đến môi trường, đấu tranh với các tổ chức, đơn vị vi phạm pháp luật BVMT, gây tác hại về môi trường.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động tham gia bảo vệ môi trường của các tổ chức xã hội
Trình tự, thủ tục của các hoạt động tham gia BVMT của các TCXH cần được cụ thể, bảo đảm phù hợp với từng loại hoạt động, có thể được quy định trong Luật BVMT hoặc các luật chuyên ngành khác.
Tuy nhiên, khi quy định trong các luật chuyên ngành khác, chẳng hạn trong Luật khiếu nại, luật tố cáo, cần có điều khoản riêng về trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo về môi trường. Trong Luật Bảo vệ môi trường, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo… cần có quy định thêm về trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo.
Thứ tư, xây dựng Luật về hội tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức, hoạt động của tổ chức xã hội và tổ chức xã hội về môi trường tham gia bảo vệ môi trường
Các TCXH góp phần không nhỏ trong việc tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào quá trình BVMT, giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BVMT, hình thành cơ chế hữu hiệu trong việc giám sát BVMT. Xây dựng Luật về hội hiện nay cần chú ý những nội dung liên quan đến đối tượng áp dụng, thủ tục thành lập hội, chính sách đối với hội, tổ chức, hoạt động của TCXH, quản lý nhà nước đối với các TCXH...
Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung quy định về hậu quả pháp lý từ hoạt động tham gia bảo vệ môi trường của các tổ chức xã hội
Để phát huy vai trò, hiệu quả tham gia BVMT của các TCXH, cần quy định cụ thể về các hậu quả pháp lý khi tham gia BVMT của các TCXH, trong đó xác định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các chủ thể vi phạm pháp luật môi trường trong các trường hợp như: khi các TCXH tham gia xây dựng, góp ý kiến vào chủ trương, chính sách, pháp luật, kế hoạch về môi trường, BVMT thì hậu quả pháp lý của hoạt động này là bản kiến nghị, góp ý của TCXH và tiếp thu, trả lời, giải trình của cơ quan soạn thảo và cơ quan có thẩm quyền. Việc trả lời, giải trình phải gửi cho TCXH, không trả lời chung cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Nếu hậu quả sự cố môi trường, ô nhiễm môi trường hoặc hành vi vi phạm là cực kỳ nghiêm trọng, trên diện rộng, ảnh hưởng đến môi trường sống của nhiều người v.v.. thì pháp luật cần xác định thêm các hậu quả pháp lý của việc tham gia BVMT của các TCXH. Đó là các bản kiến nghị gửi trực tiếp Quốc hội, HĐND, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đại biểu Quốc hội, HĐND để các cơ quan này phải đưa vào chương trình nghị sự, thảo luận. Trong trường hợp Quốc hội và HĐND chưa họp, có thể gửi cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thường trực HĐND.
__________________
(1), (3), (4) Nguyễn Thị Tố Uyên (2017): Cơ chế pháp lý về sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, tr.36, 36-37, 40-41.
(2) Nguyễn Đức Thùy (Chủ biên) (2011): Tiếp cận quyền con người trong bảo vệ môi trường, Văn phòng IUCN Việt Nam, tr.69.
(5) Thủ tướng Chính phủ (2012): "Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5-9-2012 về Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, tại trang http://www.chinhphu.vn, truy cập ngày 2-10-2016.
LÊ VĂN NGHĨA
Công an Thành phố Hải Phòng