Một số góp ý về dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 (sửa đổi)
TS TRẦN VĂN QUÝ
Viện Nhà nước và Pháp luật,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(LLCT) - Thực hiện chương trình xây dựng luật của Quốc hội khóa XV, dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 (sửa đổi) đã và đang được lấy ý kiến từ các cơ quan, tổ chức và cá nhân cũng như toàn thể nhân dân để Quốc hội thảo luận, cho ý kiến và xem xét thông qua. Xuất phát từ thực tiễn hiện nay, trên cơ sở nghiên cứu các nghị quyết của Đảng, Hiến pháp năm 2013, các luật liên quan, bài viết đề xuất một số góp ý hoàn thiện dự thảo Luật.
1. Về vấn đề Tòa án thực hiện quyền tư pháp
Khoản 1, Điều 102, Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có bất kỳ quy phạm pháp luật nào quy định chi tiết, giải thích quyền tư pháp gồm nội dung gì, phạm vi đến đâu nên chưa có sự thống nhất trong nhận thức cũng như tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
Nhiệm vụ và giải pháp thứ 7 của Nghị quyết số 27-NQ/TW đã khẳng định: “Xác định thẩm quyền của Tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp”. Do đó, việc quy định nội dung, phạm vi quyền tư pháp trong Dự thảo Luật là cần thiết nhằm thể chế hóa kịp thời Nghị quyết số 27-NQ/TW và cụ thể hóa khoản 1 Điều 102, Hiến pháp năm 2013.
Tham khảo Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014: Để cụ thể hóa khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” thì Điều 3 đã quy định cụ thể nội dung và phạm vi thực hành quyền công tố và Điều 4 đã quy định cụ thể nội dung và phạm vi kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều 3 và Điều 4 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014 đã tạo ra sự thống nhất trong nhận thức và hoạt động trong toàn ngành Kiểm sát.
Vì vậy, đây là vấn đề hết sức quan trọng, cần thiết phải đặt ra trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân để làm cơ sở pháp lý bảo đảm thống nhất trong nhận thức và hoạt động trong toàn hệ thống.
2. Về điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ
Dự thảo Luật sửa đổi quy định rõ Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết tất cả các loại án mà chỉ hỗ trợ đương sự là người yếu thế trong xã hội thu thập chứng cứ trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo quy định của pháp luật là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc chủ đạo của tố tụng (dân sự: nghĩa vụ chứng minh thuộc trách nhiệm của các đương sự; hình sự: nghĩa vụ chứng minh thuộc trách nhiệm của chủ thể buộc tội) và phù hợp với thông lệ quốc tế vì:
Đối với vụ án dân sự theo nghĩa rộng (dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình, lao động...): chứng minh thuộc nghĩa vụ của các đương sự (chủ thể khởi kiện và chủ thể bị kiện). Các chủ thể muốn bảo vệ thành công quan điểm của mình thì phải trên cơ sở chứng cứ, tài liệu và lập luận khoa học. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm về mặt thời gian và mở rộng dân chủ để các chủ thể tranh luận tại phiên tòa.
Nếu quy định Tòa án thu thập chứng cứ mà tài liệu chứng cứ đó lại có lợi cho một bên nào đó thì rất khó để thuyết phục được bên còn lại về sự vô tư, khách quan của Tòa án. Tòa án là phải đứng thẳng, không được phép nghiêng về bên ngòa trong hoạt động xét xử. Có như vậy Tòa án mới thực hiện được sứ mệnh của mình là bảo vệ công lý.
Đối với án hình sự: Nghị quyết số 27-NQ/TW khẳng định: “Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá”. Để bảo đảm được xét xử là trung tâm thì việc xét xử của Tòa án phải thực sự tạo ra tự do tranh tụng, tự do trình bày quan điểm, chứng cứ của các bên (bên buộc tội: Viện Kiểm sát, bị hại và bên gỡ tội: Luật sư bào chữa, bị can, bị cáo). Tòa án phải là chủ thể trung tâm của hoạt động xét xử theo nghĩa tạo mọi điều kiện cho các hoạt động tố tụng được tiến hành trong điều kiện dân chủ, bình đẳng, công khai, không bị giới hạn về thời gian.
Sự công tâm, khách quan của Tòa án không chỉ được thể hiện trong phán quyết mà quan trọng hơn còn phải được thể hiện cả trong quá trình điều hành phiên tòa. Chỉ trong tố tụng hình sự tranh tụng mới đặt ra vị trí, vai trò trung tâm của hoạt động xét xử và ngược lại, vị trí, vai trò này chỉ được xác lập khi nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm thực hiện. Tố tụng hình sự tranh tụng sẽ hình thành hai bên (buộc tội và gỡ tội) và 3 chức năng: công tố, bào chữa, xét xử. Chủ thể thực hiện chức năng xét xử là Tòa án. Tòa án chỉ thực hiện những công việc của chức năng xét xử, không thực hiện những công việc của chức năng buộc tội. Nếu Tòa án thu thập chứng cứ thì vô hình chung đã thực hiện những công việc thuộc thẩm quyền của chức năng buộc tội. Tòa án phải thoát ra khỏi vai trò theo đuổi mục đích đi tìm sự thật khách quan của vụ án. Nếu quy định Tòa án có thẩm quyền thu thập chứng cứ thì khi đó Tòa án đã đóng luôn vai trò của chủ thể buộc tội. Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh tội phạm, nhưng Tòa án có nghĩa vụ tạo mọi điều kiện để tội phạm được chứng minh, trên cơ sở đó Tòa án đưa ra phán quyết. Chứng minh tội phạm thuộc nghĩa vụ của chủ thể buộc tội.
Việc điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong thu thập tài liệu, chứng cứ như trên sẽ là bước tiến để nâng cao nhận thức của người dân về trách nhiệm của mình, nâng cao trình độ dân trí, khả năng tự bảo vệ của người dân sẽ tăng lên, thay vì ỷ lại vào Nhà nước; bảo đảm thực hiện đúng và hiệu quả nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, mỗi người tham gia vào quá trình tố tụng phải đúng vai trò, trách nhiệm của mình và Tòa án thực hiện đúng vai trò của người trọng tài đứng giữa đưa ra phán quyết công tâm, khách quan. Còn nếu luôn lấy lý do “trình độ dân trí chưa cao” để giao trách nhiệm thu thập chứng cứ cho Tòa án thì đây sẽ là bước cản sự phát triển về văn hóa pháp lý của người dân Việt Nam.
Quy định này không làm giảm khả năng thu thập chứng cứ của các bên mà sẽ làm tăng trách nhiệm của các bên liên quan trong vụ việc, cũng như trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án. Trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền không cung cấp chứng cứ, tài liệu mình đang lưu giữ thì người tham gia tố tụng hoàn toàn có thể đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc thực hiện hành vi đối với cơ quan, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu.
3. Về giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử
Việc quy định nhiệm vụ của Tòa án “giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử” trong dự thảo Luật là cần thiết, bởi lẽ:
Trong bộ máy nhà nước, chỉ duy nhất Tòa án thực hiện chức năng xét xử, có quyền ra bản án tuyên ai đúng, ai sai, tuyên một người có tội hay không có tội; tù hay không tù; tử hình hay không tử hình. Như vậy, phán quyết của Tòa án liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đôi khi quyết định đến cả sự sống của một con người. Do đó, Tòa án phải giải thích rõ trong bản án: vì sao lại tuyên họ có tội? vì sao lại áp dụng Luật này, mà không phải Luật khác? vì sao lại áp dụng Điều này, mà không phải Điều khác?...
Hoạt động “giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử” là hoạt động lâu nay các Tòa án, các Thẩm phán vẫn đang làm khi xét xử (không phải là hoạt động mới). Do đó, việc luật hóa hoạt động “giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử” vào Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân sẽ ràng buộc trách nhiệm cao hơn đối với các Tòa án, các Thẩm phán. Tạo cơ sở pháp lý để xã hội (mà trước hết là bị cáo, đương sự) giám sát hoạt động xét xử, giám sát bản án của Tòa án. Đồng thời, đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 27-NQ/TW ngày 9-11-2022: “Bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử”.
Vấn đề đặt ra là việc quy định trong Dự thảo luật thẩm quyền giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử có vi phạm Hiến pháp hay không? Vì khoản 2, Điều 74, Hiến pháp năm 2013 quy định: Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh. Giải thích của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là giải thích về nội dung, Hiến pháp, luật, pháp lệnh khi nội dung đó còn có nhiều cách hiểu khác nhau, chưa có sự thống nhất trong nhận thức. Còn giải thích của Tòa án là giải thích căn cứ lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng cho chủ thể bị áp dụng hiểu. Bản thân quy phạm pháp luật Tòa án giải thích đã có sự thống nhất trong nhận thức, không có mâu thuẫn trong cách hiểu. Do đó, Dự thảo quy định thẩm quyền mới này cho Tòa án là hoàn toàn phù hợp, không vi Hiến,
Quy định này sẽ góp phần nâng cao chất lượng bản án của Tòa án, bảo đảm tính logic trong bản án, quyết định của Tòa án, tránh tình trạng bản án, quyết định của Tòa án chỉ có nội dung vụ việc, căn cứ và quyết định của Tòa án, không bảo đảm những lập luận, giải thích thuyết phục đối với người bị điều chỉnh bởi bản án, quyết định đó. Từ đó, tăng niềm tin của dân chúng vào hệ thống tư pháp.
4. Về thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt
Quy định về thành lập Tòa án chuyên biệt trong dự thảo Luật là phù hợp và cần thiết, thỏa mãn cả yêu cầu về chính trị, pháp luật và thực tiễn:
Về căn cứ chính trị: Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 27-NQ/TW đã đặt ra yêu cầu “xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp”. Vì vậy, để “xây dựng Tòa án chuyên nghiệp” theo chủ trương của Đảng thì việc chuyên môn hóa Thẩm phán, Tòa án là điều cấp thiết.
Về căn cứ pháp lý: Nghị quyết số 755 của UBTVQH ngày 27-3-2023 yêu cầu: “Sửa đổi pháp luật, tổ chức bộ máy phù hợp, tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ… để đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án phá sản doanh nghiệp, sở hữu trí tuệ”.
Về căn cứ thực tiễn: Thực tiễn xét xử trong thời gian qua cho thấy, một số loại án tỷ lệ hủy, sửa án chiếm tỷ lệ cao, nguyên nhân chính do năng lực của đội ngũ Thẩm phán còn nhiều hạn chế, như: án hành chính, án phá sản doanh nghiệp, án sở hữu trí tuệ... Do đó, việc tổ chức Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt đối với một số loại án khó sẽ phát huy trình độ chuyên môn sâu của Thẩm phán, Hội thẩm, từ đó nâng cao chất lượng giải quyết loại án này, đặc biệt là đối với lĩnh vực sở hữu trí tuệ - vấn đề đang rất nóng trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay. Việc đề cao và thực hiện các giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ sẽ là thúc đẩy sự sáng tạo của mỗi cá nhân và thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển.
Trên thực tế, loại án này chỉ xảy ra ở một số thành phố lớn, kinh tế phát triển. Do đó, trên phạm vi cả nước chỉ cần thành lập khoảng 3 Tòa án sơ thẩm chuyên giải quyết loại án này sẽ bảo đảm tính chuyên môn cao, nâng cao chất lượng giải quyết, thay vì phải bố trí Thẩm phán cho loại án này ở cả 63 địa phương, vừa dàn trải, vừa không hiệu quả.
- Đây là bước đi để hệ thống Tòa án nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp; đồng thời, gia tăng uy tín quốc tế cho hệ thống tư pháp Việt Nam.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có Tòa chuyên biệt trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là hành chính, phá sản, sở hữu trí tuệ, thương mại quốc tế... là những lĩnh vực không thể thiếu.
Thực tế chứng minh, Thẩm phán đồng thời phải dảm nhiệm xét xử các vụ việc ở nhiều lĩnh vực khác nhau thì chất lượng sẽ bị ảnh hưởng. Thẩm phán cần được chuyên môn hóa càng sâu, càng cụ thể lĩnh vực xét xử thì hiệu quả, chất lượng càng được nâng cao.
5. Về đổi mới Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện theo thẩm quyền xét xử
Việc đổi mới Tòa án nhân dân cấp tỉnh thành Tòa án nhân dân phúc thẩm, Tòa án nhân dân cấp huyện thành Tòa án nhân dân sơ thẩm là phù hợp và cần thiết, bởi lẽ:
Đây là sự thể chế hóa các quan điểm của Đảng về “bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử” được đề ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW và phù hợp với định hướng phát triển lâu dài của Tòa án.
Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, Tòa án thực hiện thẩm quyền tài phán của quốc gia, không phải là Tòa án của tỉnh, của huyện hay của địa phương nào. Tòa án hoạt động theo thẩm quyền tố tụng nên việc tổ chức Tòa án theo cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm không chỉ đơn thuần là đổi tên mà chính là tuân thủ Hiến pháp và thực hiện đúng chủ trương của Đảng tại Nghị quyết 27-NQ/TW về các “Tòa án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử”. Góp phần thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử và khẳng định địa vị pháp lý của Toà án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Việc tổ chức các Tòa án theo thẩm quyền xét xử đã có trong lịch sử tổ chức Tòa án ngay từ những ngày đầu thành lập. Điều 63 Hiến pháp năm 1946 quy định Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có: (a) Toà án tối cao; (b) Các Toà án phúc thẩm; (c) Các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp.
Việc tổ chức Tòa án nhân dân phúc thẩm, Tòa án nhân dân sơ thẩm theo thẩm quyền xét xử không phải là việc thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực. Cơ chế lãnh đạo của cấp ủy Đảng, giám sát của cơ quan dân cử địa phương đối với các Tòa án; quan hệ phối hợp công tác với các cơ quan thực thi pháp luật vẫn được thực hiện theo quy định hiện hành, không ảnh hưởng đến tổ chức, hoạt động và quan hệ phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng; không tăng thêm đầu mối, biên chế; không gây xáo trộn về tổ chức cán bộ. Không phải sửa các luật có liên quan vì đã được quy định trong điều khoản chuyển tiếp của dự thảo Luật.
Đây không đơn thuần chỉ là sự thay đổi về tên gọi mà hàm chứa trong nó có sự thay đổi về bản chất, là cơ sở để hình thành nên tư duy về Tòa án được tổ chức độc lập theo cấp xét xử, không phải Tòa án được tổ chức theo địa giới hành chính; Tòa án thực hiện thẩm quyền tài phán của quốc gia, không phải là Tòa án của tỉnh, huyện hay địa phương nào.
Mặc dù Tòa án nhân dân phúc thẩm vẫn xét xử sơ thẩm đối với một số loại vụ án theo quy định của Luật tố tụng nhưng nhiệm vụ chính yếu của Tòa án này là xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, quy định này chỉ mang tính tạm thời, trong tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì trong thời gian tới sẽ phải tiếp tục tăng thẩm quyền cho Tòa án nhân dân sơ thẩm, tiến tới chuyển toàn bộ thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm cho Tòa án nhân dân sơ thẩm khi các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm có đủ năng lực điều tra, truy tố, xét xử tất cả các loại vụ việc.
Việc đổi mới này tuy có thể phát sinh chi phí do phải điều chỉnh tên gọi, thay đổi con dấu nhưng vì lợi ích lâu dài, vì sự phát triển của hệ thống Tòa án và sự thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình cải cách tư pháp mà Đảng ta đã đề ra, cần thiết phải thực hiện bước đi đầu tiên trong việc đổi mới tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, làm cơ sở để có những bước đổi mới tiếp theo về sau này.
6. Về không tiến hành điều tra, thanh tra đối với hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc đang trong quá trình tố tụng
Dự thảo Luật bổ sung quy định không tiến hành điều tra, thanh tra đối với hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc đang trong quá trình tố tụng, trừ trường hợp có căn cứ rõ ràng xác định Thẩm phán, Hội thẩm vi phạm pháp luật hình sự trong giải quyết vụ việc đó là phù hợp, bởi lẽ:
Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết 27 đều quy định nguyên tắc: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Việc cơ quan thanh tra, điều tra tiến hành hoạt động thanh tra, điều tra, yêu cầu Tòa án, Thẩm phán báo cáo khi vụ án đang trong quá trình tố tụng có thể làm ảnh hưởng đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng bình thường của Tòa án.
Thời hạn giải quyết vụ án hiện nay đang được quy định trong các luật tố tụng rất chặt chẽ. Vi phạm thời hạn tố tụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, đương sự. Thời hạn giải quyết vụ án nếu bị kéo dài, sẽ dẫn tới kéo dài thời gian tạm tạm giam với bị cáo. Do đó, việc dự thảo Luật quy định không thanh tra, điều tra đối với hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc đang trong quá trình tố tụng sẽ bảo đảm cho Tòa án giải quyết vụ án đúng thời hạn luật định, bảo đảm cho Thẩm phán toàn tâm, toàn ý, dành toàn bộ thời gian cho việc xét xử; thay vì phải đi báo cáo các cơ quan điều tra, thanh tra khi quá trình giải quyết vụ án đang diễn ra bình thường.
Trường hợp có căn cứ rõ ràng xác định Thẩm phán, Hội thẩm có vi phạm pháp luật hình sự khi giải quyết vụ việc đó, thì đã được Dự thảo quy định vẫn tiến hành điều tra, thanh tra là đã bảo đảm chặt chẽ, phù hợp, đáp ứng các nguyên tắc của Hiến pháp và các quy định của các luật tố tụng.
Đối với các vụ việc “đang trong quá trình tố tụng”, tức là vụ án đang trong quá trình giải quyết, chưa có phán quyết về vụ án, nếu cơ quan điều tra, thanh tra yêu cầu báo cáo thì cũng chưa có nội dung gì để báo cáo; nếu yêu cầu cung cấp tài liệu phục vụ việc điều tra, thanh tra thì cũng không thể cung cấp các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho các cơ quan này.
7. Về thẩm quyền xem xét, kiến nghị về tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật trong xét xử
Tán thành quy định của Dự thảo Luật về thẩm quyền của Tòa án “Xem xét, kiến nghị về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật trong xét xử theo quy định của luật”, bởi lẽ:
Để “kiến nghị” văn bản vi hiến, vi luật thì trước đó phải “xem xét”. Việc dùng cụm từ “xem xét” trước cụm từ “kiến nghị” không gây nhầm lẫn với thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bởi vì, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền “xem xét để bãi bỏ văn bản trái Hiến pháp, luật”, muốn “bãi bỏ” thì trước đó phải “xem xét” có trái Hiến pháp hay không; còn Tòa án “xem xét” để “kiến nghị”.
Trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cụm từ “xem xét” được sử dụng lặp đi lặp lại hàng chục lần, ví dụ: giao cho Bộ trưởng “xem xét, ký ban hành thông tư” (Điều 104); giao cho Ủy ban nhân dân huyện “xem xét, thông qua dự thảo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện” (Điều 141),… Muốn ký ban hành thông tư của Bộ hoặc ký quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện trước đó phải xem xét.
8. Về bỏ thẩm quyền khởi tố vụ án của Tòa án
Đồng tình với quan điểm về việc bỏ thẩm quyền của Tòa án khởi tố vụ án hình sự, bởi lẽ:
Việc khởi tố, điều tra, truy tố là trách nhiệm của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, không thuộc chức năng xét xử của Tòa án. Tòa án là cơ quan xét xử, nếu Tòa án khởi tố vụ án, rồi sau đó lại xét xử vụ án do chính mình đã khởi tố thì có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư trong quá trình xét xử.
Thực tiễn cho thấy, rất hiếm khi Tòa án thực hiện quyền khởi tố. Nếu có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, thì Tòa án kiến nghị cơ quan điều tra, Viện kiểm sát khởi tố theo quy định của pháp luật.
Thay vì thực hiện thẩm quyền khởi tố vụ án, Tòa án gửi văn bản về vi phạm của tổ chức, cá nhân mà Tòa án phát hiện để cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát xem xét khởi tố theo thẩm quyền. Quy định như vậy là đã bảo đảm không bỏ lọt tội phạm, đồng thời giúp hạn chế tốt hơn khả năng sai sót trong khởi tố vụ án hình sự dẫn tới Nhà nước phải bồi thường vì ngoài những nghiên cứu, nhận định của Tòa án thì cơ quan điều tra sẽ có thêm một bước nghiên cứu, điều tra trước khi khởi tố vụ án.
9. Về cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và tổ chức lại bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao
Dự thảo Luật quy định về nguyên tắc tại Tòa án nhân dân tối cao có thể có đơn vị sự nghiệp công lập khác là phù hợp. Đây chỉ là quy định về mặt nguyên tắc, còn trên thực tế việc thành lập đơn vị sự nghiệp công lập cụ thể thế nào sẽ do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Do vậy, việc quy định như dự thảo chỉ mang tính dự liệu, nếu sau này có phát sinh nhu cầu thành lập đơn vị sự nghiệp công lập khác và được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền thì không cần thiết phải sửa đổi Luật.
Tương tự như vậy, dự thảo Luật quy định “các vụ và tương đương” trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao để dự liệu trong trường hợp pháp luật có quy định về loại hình đơn vị giúp việc khác tương đương cấp vụ thì không cần thiết phải sửa đổi Luật này.
Dự thảo quy định bộ phận giám đốc, kiểm tra của Tòa án nhân dân cấp cao được tổ chức theo đơn vị cấp vụ (đơn vị cấp vụ loại 2) là phù hợp với tính chất công việc; bảo đảm tính đồng bộ về cơ cấu tổ chức và quyền lợi của công chức công tác tại cơ quan tố tụng tương đương (Viện kiểm sát nhân dân cấp cao).